Thứ Bảy, 18 tháng 11, 2023

ĐÔI ĐIỀU BÀN LUẬN VỚI ĐỖ MINH TUẤN (Trích từ cuốn BIÊN ĐỘ CỦA TRÍ TƯỢNG TƯỢNG, NXB VĂN HỌC, 2001)

 ĐÔI ĐIỀU BÀN LUẬN VỚI ĐỖ MINH TUẤN

(Trích từ cuốn BIÊN ĐỘ CỦA TRÍ TƯỢNG TƯỢNG, NXB VĂN HỌC, 2001)


Bài “tâm sự” tôi mới viết lúc sáng thấy bạn đọc vào bình luận rất vui vẻ. Tôi thấy chuyện “tâm sự” hoặc vừa rồi chỉ đưa một tấm ảnh nhưng số người “like” lại nhiều hơn những bài tôi viết rất cao sâu về khoa học, triết học; hoặc những sáng tác có khi phải xuất thần, “Trời cho” mới viết được. Thì ra người “thích” Đông La nhiều hơn người “hiểu” Đông La.
Mục đích tôi viết là “góp ý cho Nhà nước”, không nêu ý kiến mong đông người vào thảo luận, nên tôi chỉ đồng ký kết bạn facebook với ai “like” mình. Còn khoảng hơn 1000 người xin kết bạn nữa mà tôi chưa OK, nên tôi thỉnh thoảng vào xem danh sách người “like” để, vì lịch sự, xem có ai xin kết bạn thì OK. Tôi không xin kết bạn với ai, chỉ vài người thân cũng có fb nhưng họ không rành internet, muốn biết trang của tôi, nên tôi gởi lời kết bạn với họ. Một trong vài người đó là anh Nguyễn Ngọc Thu, hôm nay tôi rất vui khi thấy anh cũng vào “like”, còn thả “tim” nữa. Anh Thu là người cùng làng Đông La, hơn tôi 9 tuổi, cũng là một nhà thơ. Sau Giải phóng, tôi và anh lại học cùng Trường Đại học Tổng hợp TPHCM, tôi học Khoa Hoá, anh học Khoa Chính trị, sau này chính là nơi mà ông Võ Văn Thưởng vào học. Ngày ấy, trong tâm trí anh, tôi đúng là một thằng trẻ con, nên lần đầu gặp lại, anh bảo: “Mày cũng vào đại học rồi cơ à?”. Với cuộc đời tôi, anh Nguyễn Ngọc Thu cũng như mấy người, trong đó có vợ chồng anh Thái Thăng Long và chị Lợi, chính là những ân nhân của tôi. Họ đã giúp tôi những chuyện quan trọng, sống còn, không chỉ đối với tôi mà cả gia đình tôi. Vậy mà thoáng chốc, từ 1976, tôi đã cùng anh “trên tầng cây số” ở TPHCM cả gần nửa thế kỷ, chứng kiến bao sóng gió, buồn vui của cuộc đời.
Anh Thu ra trường ở lại làm cán bộ, khi chia trường thì chỗ anh thành Trường “Nhân Văn”, phòng anh bên quán cà phê “Văn khoa” nổi tiếng, nơi tập trung cán bộ giảng dạy là bạn anh, cũng quen tôi, nên gần như tôi đến chơi thường xuyên. Từ khi còn chưa có internet, anh luôn là độc giả đầu tiên của tôi. Anh có khiếu ăn nói, ngoại giao giỏi, trong cuộc họp mà anh phát biểu, tất cả đúng là “há mồm nghe”. Vì vậy, anh thường nói: “Chú có tài, tiếc là ngoại giao dở".
***
Lúc sáng tôi có viết sáng tác về Lý luận Phê bình đầu tiên tôi đăng ở Tạp chí VNQĐ là bài “đánh” cuốn “Ngày Văn học lên ngôi” của Đỗ Minh Tuấn. Đại tá Nhà Lý luận Phê bình Hồng Diệu là người biên tập, một thời gian dài sau đó đã thân thiết với tôi như anh em.


Bài tôi viết về những vấn đề rất cao siêu mà giới văn chương gần như còn mù tịt. Vì vậy mà ông GS Trần Đình Sử từng rất quý trọng tôi. Giới văn chương thường có những người ba hoa, chém gió, véo von, làm dáng tri thức, mồm mép ghê gớm như Trần Mạnh Hảo, Đỗ Minh Tuấn; hoặc cao đạo huyên thuyên như ông GS Nguyễn Huệ Chi. Để tránh bị coi như vậy, chiều nay tôi sẽ đăng lại mấy ý viết về Đỗ Minh Tuấn đó, viết tận từ năm 1997, tức đã gần 30 năm trôi qua, nhưng vẫn còn nóng hổi tính thời sự không chỉ về văn chương mà còn về triết học, tư tưởng, văn hoá, v.v…
Xin nói trước là bài rất khó đọc.
18-11-2023
ĐÔNG LA
ĐÔI ĐIỀU BÀN LUẬN VỚI ĐỖ MINH TUẤN
(Trích từ cuốn BIÊN ĐỘ CỦA TRÍ TƯỢNG TƯỢNG, NXB VĂN HỌC, 2001)
Đỗ Minh Tuấn, trong bài đối thoại với Đức Uy (VN số 32, 1995), viết: “Sự sụp đổ của quyết định luận, sự ra đời của thuyết bất định Heizenberg; sự giác ngộ ra các chiều kích mới của thế giới và của bản thân đã đẩy con người vào mê hồn trận của một thế giới chập chờn bất định, trong đó người ta buồn nôn vì mất định hướng … Trong cuộc khủng hoảng tinh thần này, nhân loại tìm thấy lời giải đáp cho cái bối rối hiện sinh trong sự phiêu lưu của người anh hùng …”.
Nói như vậy, Đỗ Minh Tuấn đã nói theo tinh thần của chủ nghĩa duy tâm vật lý. Khi các nhà bác học đã phát hiện ra ánh sáng cũng như các hạt vi mô đều có bản chất nhị nguyên sóng và hạt, Heisenberg đã phát biểu “Nguyên lý bất định”: người ta không thể xác định chính xác đồng thời vị trí hoặc động lượng của các hạt cơ bản. Thực tế, nó là một phát minh kỳ diệu, giúp con người hiểu rõ hơn bản chất của tự nhiên, của cấu tạo vật chất, giải thích được bao nhiêu hiện tượng khoa học, mang lại bao ứng dụng. Có thể đúng khi nói nó đã chỉ ra được sự hạn chế của cơ học cổ điển và thế giới quan theo quyết định luận máy móc, nhưng với chủ nghĩa duy vật và quyết định luận khoa học, nó mở rộng tầm nhìn toàn diện hơn về thế giới, làm sao “sự ra đời của thuyết bất định” lại “đẩy con người vào mê hồn trận của một thế giới chập chờn bất định”?
Trong bài Đọc CUỐN “NGÀY VĂN HỌC LÊN NGÔI”, tôi lại bàn tiếp VỀ NGUYÊN LÝ BẤT ĐỊNH với Đỗ Minh Tuấn:
“Có thể nói Nguyên lý bất định chính là vật chứng của tri thức tác giả Ngày văn học lên ngôi. Qua sự hiểu biết về nguyên lý bất định, những người am tường sẽ xác định được trình độ của anh như thế nào? Anh tư duy ra sao? Khoa học tìm ra nguyên lý bất định, thì anh bảo con người bị đẩy vào cõi chập chờn bất định. Thế Einstein tìm ra thuyết Tương đối, thấy không gian cong, thời gian và khối lượng co giãn, rồi những phát minh ra phản vật chất,… thì anh bảo con người bị đẩy vào đâu?
Khi Newton đưa ra thuyết hấp dẫn, chính Laplace đã tư duy theo kiểu như vậy. Ông đã cho rằng vũ trụ là tất định. Từ những quy luật khoa học, từ một tọa độ xác định, người ta có thể xác định được mọi chuyển động xảy ra trong vũ trụ. Suy luận như vậy là logic trong phạm vi cơ học Newton. Nhưng từ điều này, ông đã đi xa hơn nữa khi áp dụng cho cả các quá trình xã hội và hành vi con người thì lại sai lầm. Quyết định luận máy móc của ông đồng nhất tính nhân quả với tất yếu, phủ nhận tính ngẫu nhiên, dẫn đến thuyết định mệnh gắn liền niềm tin vào thần linh. Các nhà triết học duy tâm hiện đại theo tinh thần thực chứng cũng đã đi theo vết bánh xe đổ, cũng tư duy một cách máy móc theo những quy luật cơ học như Laplace vậy. Khi Heisenberg tìm ra Nguyên lý bất định, họ phủ nhận chế ước nhân quả và tính khách quan của thế giới vi mô. Thực tế không phải vậy. Dù chuyển động có tính bất định, nhưng các hạt vi mô (như electron) vẫn chuyển động theo các quỹ đạo mà các phương trình sóng của cơ học lượng tử vẫn xác định được xác xuất hiện diện của chúng như những đám mây điện tử, tạo nên những liên kết nguyên tử, phân tử, gây ra những khả năng phản ứng xác định, phù hợp với thực nghiệm. Hơn nữa, cơ học lượng tử cũng là cơ sở cho hầu hết những khoa học, nền tảng của sinh học, hóa học hiện đại, công nghệ thông tin … Nếu nó bất định theo nghĩa loạn xà ngầu thì còn làm cơ sở cho cái gì? Nói tóm lại, dù có tính bất định, nhưng các hạt vi mô chỉ bất định trong không gian của thế giới vi mô, ngoài giới hạn ấy, chúng lại xây nên thế giới mà chúng ta đang sống đây theo những quy luật khoa học hoàn toàn xác định. Đây chính là bài toán vĩ đại mà trí tuệ loài người còn chưa giải được để có thể đưa ra những quy luật thống nhất, diễn tả được mọi quá trình vật lý. Nếu chủ nghĩa duy vật biện chứng coi những phát minh khoa học chỉ là chính chúng, là những thành tựu của tiến bộ, và đặt nó trong tổng thể tri thức của nền văn minh nói chung, thì những người theo chủ nghĩa duy tâm vật lý đã luận giải một cách duy tâm những phát minh ở đầu thế kỷ XX (thuyết Tương đối, Cơ học lượng tử…), đã coi “vật chất biến mất”, “không có chủ thể thì cũng không có khách thể”; đã đồng nhất quy luật khoa học với quy luật cuộc sống. Đây chính là những “tư tưởng triết học hiện đại” mà tác giả “Ngày văn học lên ngôi” đã “dày công” thu lượm được, nên mới đưa ra những kết luận chắc như đinh đóng cột rằng: “lịch sử tư duy đi từ quyết định luận đến bất định luận”. Có điều, anh không ngờ rằng, viết vậy mình đã tự mâu thuẫn, bởi nhiều chỗ anh lại lấy chính tư tưởng của Marx và Engels làm cơ sở để biện bác. Anh viết: “Chủ nghĩa Marx chủ trương một thái độ duy vật lịch sử, một phươg pháp khoa học...”(Tr.32). Tại sao lại như vậy? Lẽ ra anh phải viết như thế này chứ : “Lịch sử tư duy đi từ quyết định luận máy móc đến quyết định luận biện chứng ”; rồi : “Sự sụp đổ của quyết định luận máy móc, sự ra đời của nguyên lý bất định đã giúp cho con người hiểu đúng hơn bản chất của tự nhiên, đưa con người tới một cuộc sống ổn định hơn, khi nó giúp người ta đưa ra được những phương thức sản xuất mới hơn...”.
Như vậy, tác giả Ngày văn học lên ngôi đã tiếp cận được những tri thức của khoa học và triết học hiện đại, tiếc là anh lại không đủ trình độ để hiểu, để phân tích đánh giá, nên đã không nắm được bản chất của vấn đề, chỉ chạy theo cái danh xưng triết học hiện đại, và đã lầm lẫn coi chúng là chân lý, một bước tiến mới của nhận thức.
Tác giả Ngày văn học lên ngôi cũng tùy tiện khi nói, với phương Đông, việc phát hiện ra nguyên lý bất định như một phát hiện hồn nhiên của chú bé trong “Hoàng đế cởi truồng” của Anđecxen. Chỉ có người không hiểu khoa học mới nói một cách “hồn nhiên” như vậy thôi. Tất nhiên, mọi quy luật khoa học đều hiển nhiên, nhưng để tìm ra cái hiển nhiên ấy thì không phải chuyện đùa! Phải có trí tuệ siêu đẳng của các nhà bác học, dựa trên một nền tảng tri thức và những kiểm chứng.
Bắt đầu từ khi Max Planck phát minh ra quy luật: Năng lượng của một vật chỉ phát xạ gián đoạn, từng phần một, tức lượng tử. Tiếp theo các nhà bác học phát hiện ra bản chất nhị nguyên sóng-hạt của ánh sáng và các hạt vi mô. Từ đó, Heisenberg mới phát biểu nguyên lý bất định, cơ sở của một cơ học mới: Cơ học lượng tử. Có điều, Heisenberg không phải phát minh nguyên lý bất định một cách hồn nhiên. Mà ông phải thực hiện một thí nghiệm giả định. Để phát hiện vị trí của một hạt vi mô người ta buộc phải “quan sát” nó bằng một cái khe hở. Nếu khe càng hẹp, sẽ xác định được vị trí càng chính xác, nhưng như vậy, lại làm cản trở càng mạnh sự chuyển động của hạt và gây ra sai số càng lớn về vận tốc; và ngược lại. Nguyên lý bất định được phát biểu : sự xác định tọa độ và vận tốc của hạt không thể đồng thời chính xác. Nguyên lý này, ngoài ý nghĩa khoa học, còn dẫn tới một quan điểm triết học, một cái nhìn ngược với cái nhìn tất định của quyết định luận Laplace. Chính từ đây, hai khuynh hướng triết học duy tâm và duy vật đã dựa vào để phát triển tư tưởng theo hai khuynh hướng cũng trái ngược nhau. Chủ nghĩa duy vật biện chứng khắc phục được sự hạn chế của cái nhìn máy móc theo quyết định luận Laplace, còn triết học duy tâm đưa ra vô định luận .
Trong thực tế, nhìn một cách toàn cục có so sánh, xã hội loài người chưa bao giờ ổn định như hôm nay. Sự đối kháng Đông-Tây lớn nhất đã được hòa giải. Nước ta cũng ở trong dòng phát triển ổn định. Mà cái nền tảng của mọi nền tảng xây nên sự ổn định ấy chính là những thành tựu khoa học. Nó giúp loài người không chỉ hiểu được bản chất của tồn tại, còn thúc đẩy công nghệ, kinh tế phát triển.
Không chỉ Đỗ Minh Tuấn, trước Đỗ Minh Tuấn rất lâu, GS Cao Xuân Huy, một người không có chuyên môn khoa học cũng đã hiểu sai về khoa học khi muốn lấy khoa học làm cơ sở để đưa ra những tư tưởng triết học của mình. Đến lượt Nguyễn Huệ Chi là học trò cụ Cao Xuân Huy, cũng vì không hiểu khoa học, đã xuất bản và quảng bá công trình của thầy mình, không ngờ rằng chính mình đã vạch áo thầy cho thiên hạ xem lưng. Chính ông Nguyễn Huệ Chi cũng có những bài viết về mối liên quan giữa vật lý và triết học rất buồn cười mà tôi đã chỉ ra.
Thật thú vị khi nhà bác học tật nguyền thiên tài S.Hawking lại có ý y như là nhận định về chuyện nghiên cứu lý luận trên ở Việt nam vậy : “Đến thời điểm này, đa số các nhà khoa học quá bận rộn vào việc phát triển những lý thuyết để trả lời câu hỏi như thế nào và chưa bận tâm đến việc trả lời câu hỏi vì sao? Mặt khác, những triết gia là những người mà công việc là đặt ra câu hỏi vì sao, lại không đủ điều kiện để thông tuệ được các lý thuyết hiện đại. Ở thế kỷ 18, các nhà triết học xem toàn bộ kiến thức của loài người trong đó có khoa học tự nhiên là thuộc lĩnh vực của họ...? Song đến thế kỷ 19, 20, khoa học trở nên quá toán học đối với những nhà triết học... Các triết gia giới hạn các câu hỏi lại đến mức mà Wittgenstein, nhà triết học danh tiếng nhất của thế kỷ này đã thốt lên: “Nhiệm vụ duy nhất còn lại của triết học là phân tích ngôn ngữ”.
ĐÔNG LA
Phú Nhuận
Sáng 11-7-1997
(Tạp chí Văn Nghệ Quân đội 9-1997)