Thứ Bảy, 31 tháng 3, 2012

BÀN THÊM VỀ THƠ SIÊU THỰC

ĐÔNG LA
BÀN THÊM VỀ THƠ SIÊU THỰC
Gần đây tôi có đăng bài “Biên độ của trí tưởng” tham gia diễn đàn thảo luận về thơ Trẻ của báo Văn Nghệ Trẻ. Sau đó có vài người phê phán tôi hiểu sai về thơ siêu thực. Tôi muốn viết thêm đôi điều.
          Thực tế, trên diễn đàn văn chương đã có khá nhiều người viết hoặc nhắc tới thơ siêu thực. Nhưng hiểu về nó không phải đã nhất quán. Riêng anh Trần Mạnh Hảo cũng đã dấy lên những cuộc tranh luận: “thơ muốn siêu trước hết phải thực đã, đi tới tận cùng cái thực sẽ đạt được cái siêu”. Hàn Vũ Hùng phản đối: “Nếu tôn trọng cái logic của sự thực thì siêu thực thế quái nào được”; anh Đỗ Minh Tuấn cũng tham gia: “Chúng tôi chỉ muốn trao đổi vắn tắt với nhà thơ Trần Mạnh Hảo rằng, không nên quan niệm “muốn siêu thực, thơ phải đi tới tận cùng, tới đầu mút của hiện thực cái đã”. Chủ nghĩa Siêu thực và chủ nghĩa Hiện thực là hai phương pháp sáng tác xây dựng trên những nền tảng triết học và mỹ học hoàn toàn khác nhau... không nên nghĩ rằng muốn bay như chim phải bò thật giỏi như bò sát đã”. Riêng tôi cũng đã có viết một số bài có đôi nét nói đến thơ siêu thực.
          Với tôi, sự quy kết đúng sai của người này người nọ khi chưa hiểu thấu đáo những ý tưởng của mình, tôi không bận tâm lắm; mà sự hiểu biết lơ mơ, mỗi người một kiểu về những tri thức có tính nền tảng, khiến tôi thực sự e ngại. Bởi chỉ có thể định giá đúng khi dựa trên môt nền tảng tri thức sâu rộng và đúng đắn. Và, chỉ có định giá đúng mới thúc đẩy được sự phát triển mà thôi.
          Vì vậy, tôi buộc lòng phải viết lại đôi điều về  chủ nghĩa Siêu thực và cũng để xem lại một số ý kiến đã phê phán tôi.
          Trước hết, tại sao có sự hiểu biết khác nhau về thơ siêu thực khi người ta đã bàn nhiều về nó? Người thì cho siêu thực nghĩa là cái gì đó cao siêu,người thì cho là những gì hư ảo, ma quái… Có lẽ bởi chính nó là một vấn đề trừu tượng và phức tạp. Ta đã có những giáo trình, nhưng hình như mới chỉ dừng lại ở mức độ liệt kê có tính văn học sử trong dòng văn chương suy đồi. Người ta bàn luận, tranh luận về nó nhiều, nhưng hình như ở ta chưa có bài phê bình thơ  siêu thực thuần tuý nào, ngay cả về thơ của những người sáng lập ra trường phái này, để có thể chỉ ra những đặc tính siêu thực và bình giá chúng. Chế Lan Viên viết về Hàn Mặc Tử có nhắc tới, nhưng cũng mới chỉ là nói phớt qua về “yếu tố siêu thực”. Nói chung, người biết thì nhiều, nhưng người hiểu được tường tận thường ít. Ngay như khái niệm “chủ nghĩa lãng mạn”, theo Trần Đình Sử, cũng có tới 28 cách hiểu!
Chữ suréalisme (chủ nghĩa siêu thực) do G.Apollinaire đề xuất năm 1917 cũng có tính quy ước, bởi trước đó ông đã đề nghị chữ surnaturalisme, nhưng không dùng vì chữ này các nhà triết học đã dùng rồi. Cơ sở lý luận của chủ nghĩa Siêu thực, như đã nói nhiều, được xây dựng trên một nền tảng có “thế chân vạc”: Phân tâm học của S.Freud; thuyết trực giác của H.Bergson; thuyết tương đối của A.Einstein. Đầu thế kỷ, Freud đã phát minh ra vô thức, một tầng tâm lý chìm sâu chi phối mọi chuyện mà ý thức con người không nhận biết được; một trong những biểu hiện của nó chính là những giấc mơ. Thuyết Trực giác coi việc nhận thức bằng trực giác để đối lập với nhận thức lý tính, tư duy logic. Những điều này đã khiến  Breton cho rằng, thơ ca đích thực chính là sản phẩm của quá trình tâm lý này, đó chính là những hình ảnh giống như trong mơ, xuất hiện một cách tự động, ngẫu nhiên, phi  logic, không qua sự kiểm soát của lý trí. Sau đó các nhà cách mạng siêu thực còn tìm thấy ở  những cuộc cách mạng lớn của khoa học xảy ra đồng thời một cơ sở khoa học cho quan điểm nghệ thuật của mình. Khi Einstein chứng minh được rằng, khả năng nhận thức thế giới của các giác quan con người vô cùng hạn hẹp và đầy định kiến sai lầm, tất cả không có gì là tuyệt đối như chúng ta vẫn tưởng; mà cả không gian, thời gian, kích thước mọi vật thể đều bị biến đổi  theo chuyển động và không gian quanh các thiên thể đều bị uốn cong, ông từng viết: “Bản chất của cái thế giới đích thực không phải như ta tưởng”. Thêm nữa Cơ học lượng tử cũng cho thấy rằng, sự chuyển động của các hạt vi mô cấu tạo nên muôn loài muôn vật của thế giới chúng ta lại là quá trình có tính bất định. Vì thế, các nhà siêu thực cho rằng: Định luật ngẫu nhiên mới chính là định luật bao trùm mọi định luật. Câu thơ của Lautréamont được coi là một trong tính chất chủ yếu của chủ nghĩa Siêu thực: Đẹp như một cuộc gặp gỡ tình cờ của một cái máy may với một cây dù trên bàn mổ.
Từ  những cơ sở lý luận đó, nhiều tác phẩm kỳ dị của chủ nghĩa Siêu thực ra đời. Dali vẽ những hình ảnh không có trong tự  nhiên. Delvaux vẽ những cô gái chân là  gốc cây, Magritte vẽ con cá mà thân dưới là người đàn bà… Tương tự, Breton làm những bài thơ với những hình ảnh không hề có trong đời thực. Bài “Tự do kết hợp” (L’Union libre) như một tuyên ngôn bằng thơ về thơ siêu thực của ông, trong đó ta thấy rất rõ tính gán ghép kỳ lạ, sự liên tưởng đa chiều và tất nhiên là không thể có trong đời thực. Ông  tả cái lưỡi : vừa  bằng hổ phách và thủy tinh, lại cũng có thể bằng bánh thánh. Hình dáng người đàn bà : vừa như đồng hồ cát, lại cũng như con rái cá ...

Vợ tôi có mớ tóc của lửa gỗ...
vóc hình của đồng hồ cát
...có vóc hình con rái cá trong hàm răng con hổ.
                               (Tự do kết hợp, Quỳnh thư Hiên dịch)
         
Nếu  trong Tự do kết hợp của A.Breton giàu tính gán ghép kỳ lạ thì trong Tận thế (La fin du monde) của P.Éluard lại có sự cụ thể hóa những cái trừu tượng. Ông đã nhân cách hóa ngày tận thế,  gọi là no (elle) :

Những con mắt thâm quầng theo cách của

                                        những lâu đài hoang tàn
Một con đường ngầm sâu và cái nhìn mới
                                                     đây của
Qua một tiết trời hoan lạc của mùa xuân
Khi những bông hoa điểm trang mặt đất
               Sự từ bỏ tất cả này.
Tận the  (Quỳnh Thư Hiên dịch).
         
Ở đây có một chuyện thú vị về chuyện dịch, nó liên quan đến chuyện khó hiểu của thơ, mà cũng không ít người coi  sự khó hiểu là một tính chất cao siêu. Tôi thì không quan niệm đơn giản như vậy. Ta không nên lầm lẫn giữa hai điều khó hiểu : một  do chính sự cao siêu (thí dụ như những tri thức cao cấp, những tư tưởng trừu tượng, cao sâu, độc đáo...), còn một chỉ do sự “tung hỏa mù”. Tôi tin là, không thể chỉ bằng những thao tác ngôn ngữ lập dị mà có thể biến được một điều bình thường thành điều cao siêu. Đoạn thơ trên có câu thứ hai dịch không sát nghĩa khiến cho cả đoạn  hoàn toàn khó hiểu: “Une bure de ravins entre elle et son dernier  regard: Một con đường ngầm sâu và cái nhìn mới đây của nó”. Câu dịch đã lược bỏ những yếu tố chính  nên đã biến nó thành  một sự liệt kê bâng quơ đơn giản và vô nghĩa, không nói lên cái gì cả : Con đường ngầm va cái nhìn mới đây. Thực chất ý của tác giả muốn nói  con đường ngầm sâu ấy đã  ngăn giữa ngày Tận thế với  cái nhìn sau cùng của nó. Ngày tận thế, với con mắt của lâu đài hoang tàn, với cái nhìn sau cùng, qua một vực thẳm cách ngăn, về phía mùa xuân, về hoa... Như vậy,  ta thấy ý tưởng của P.Éluard cũng được thiết kế khá mạch lạc... Phải chăng, sự khó hiểu của thơ siêu thực nói riêng, thơ dịch nói chung, một phần là do chính cái sự dịch?
          Trở lại bài viết Biên độ của trí tưởng, tôi đã nhấn mạnh rằng, tôi “không viết về toàn bộ thơ trẻ, không định giá thơ trẻ, mà chỉ nói đến đôi điều khác biệt rõ nét nhất”, nhưng cũng là “cái khác có tính biện chứng, trong khác có giống, trong giống có khác”.  Sự khác biệt tôi đã đưa ra là: sự thiết kế ý tưởngtính siêu thực cao hơn (so với thơ giai đoạn trước). Có tác giả phê là: “...Hai đặc tính... có vẻ hấp dẫn đấy,  nhưng khi anh  đưa ra dẫn chứng thì chính dẫn chứng đã phản anh”. Thực tế bài viết của tôi có nhiều dẫn chứng hơn nên rõ ràng hơn, chặt chẽ hơn. Nhưng anh Nguyễn Quang Thiều bảo phải cắt đi, vì anh ấy làm biên tập mà tôi lại trích dẫn thơ anh ấy thì kỳ quá. Bàn luận những vấn đề có tính học thuật nghiêm túc, khó khăn, mà bị câu nệ vào điều này điều nọ thì thật khó cho người viết, vì sự khác biệt rõ nét trong sáng tạo không nhiều.Tôi đã dẫn bài Bầy chó của tôi  của Nguyễn Quang Thiều và bài Tấm thảm của tôi. Nguyễn Quang Thiều dựng lên đàn chó cắn xé tranh giành nhau là nói về sự đấu tranh sinh tồn. Tôi vẽ lên một tấm thảm là nói về những buồn vui của cuộc đời. Tôi nói sự thiết kế ý tưởng qua cách dựng các hình ảnh tượng trưng là như thế. Nói cụ thể về một điều gì đấy, ta chỉ nói được một ý ấy, nhưng nếu nói một cách tượng trưng một điều gì, ý tưởng sẽ được mở ra nhiều chiều. Tất nhiên, làm một bài thơ ai cũng có ý, có tứ, nhưng  ý tứ trong rất nhiều bài thơ thường được diễn giải, bộc bạch theo mạch cảm xúc một cách trực tiếp, được trải theo vần điệu, nhiều khi bị chính những vần điệu khống chế một cách  khiên cưỡng. Sự Việt hóa thơ dịch, mà nhiều dịch giả thường cho là dịch thơ, cũng thường mắc phải lầm lỗi này, nó đã vô tình  tầm thường hóa các nguyên tác. Tôi từng rất ngạc nhiên khi không tài nào thích được thơ của những nhà thơ lớn mà cả thế giới ngưỡng mộ. Nhưng đến khi được đọc bản dịch nghĩa chứ không phải bản dịch thơ thì ngược lại. Thì ra cái sự dịch thơ kia đã vo tròn, cắt gọt hết phong cách ngôn ngữ, cách biểu đạt ý tưởng của nhà thơ. Thật tai hại khi đến giờ mà vẫn còn rất nhiều người cho rằng, tính thơ chính là tính vần điệu, êm êm, đều đều ấy. Thơ đích thực, nhất là thơ hiện đại, không phụ thuộc vào những hình thức sơ khai ấy. Thời đại ngày nay, khi ta sống trong một nền văn minh cao hơn, tiếp cận những thành tựu tri thức cao hơn, thơ ca cũng phải có những thuộc tính cao hơn. Cuộc đời đầy hạnh phúc êm đềm, nhưng để đạt được cái êm đềm, người ta thường phải vượt qua những bão tố. Thơ ca chính là những khoảnh khắc tâm trạng, giai điệu của nó không thể chỉ là êm êm, trong khi cuộc đời sinh ra nó lại đầy sôi động. Nó phải như những ngọn roi đầy ấn tượng quất vào sự bình thản, vào sự thờ ơ của con người. Sự thiết kế  mà tôi đã nêu  trong thơ Trẻ chính là sự thiết kế những ấn tượng ấy, nó chính là sự “mã hoá” cảm xúc của thơ ca. Trong đó có tăng cường “tính lãnh đạm thẩm mỹ, có sự “giao nhiệm vụ”cho từng hình ảnh, từng đối tượng của thơ. Như thế, những tầng ý tưởng sẽ được gợi mở chứ không bầy sẵn lồ lộ. Như vậy, một người không cần thông minh lắm cũng nhận ra được những phần khác biệt mà tôi đã phân tích. Mà trong bài viết, tôi cũng chỉ nói những điều tôi đưa ra là  khác, chứ không hề bảo là cao siêu hơn, hay bảo thơ trước là không hay đâu!                Có tác giả đã hiểu sai cách nói mềm dẻo của tôi, biến những ý nghĩa tương đối thành tuyệt đối, nên có những câu phê phán không đúng như : “Những gì khác với thơ trẻ anh bảo là thơ vịnh”...
          Về tính siêu thực của ngôn ngữ thơ Trẻ, hay dở còn phải bàn, nhưng sự hiện diện của nó đã là hiển nhiên. Nhưng tác giả nói tôi “đề cao thơ siêu thực” thì không phải. Ngay từ  đầu bài viết tôi đã nói đến sự cực đoan của nó. Tôi cũng còn hiểu, chủ nghĩa Siêu thực chủ trương đứng ngoài thiên kiến thẩm mỹ và đạo đức, “Đẹp là gì? Xấu là gì? Vĩ đại, hùng mạnh, yếu đuối là thế nào? Không biết! Không biết! Không biết!” (R.Đê-xê-nhơ, dẫn theo Phương Lựu, Cơ sở lý luận văn học). Tôi không tán dương điều này. Trong vài bài viết tôi đã nói muốn làm được một loại thơ có tính siêu thực về ngôn ngữ, về hình ảnh, nhưng lại hướng tới thẩm mỹ, tới đạo lý, tức siêu thực có định hướng, là “tiếp thu có chọn lọc”. Tôi nghĩ vậy bởi tôi rất chú ý đến tính phong phú, độc đáo của thơ siêu thực. Chỉ có tăng cường trí tưởng tượng, thả lỏng ý thức, người ta mới tìm được sự độc đáo, tìm thấy cái của riêng mình, nếu không, chỉ có sự coppi hiện thực giản đơn thôi, thường chỉ làm ra được những cái na ná nhau.
          Vì thế trong bài viết trước tôi chỉ nói thơ Trẻ, ngoại trừ  vài tác giả, giàu tính siêu thực thôi chứ không hoàn toàn là thơ siêu thực. Nhưng mấy câu mà tôi đã trích dẫn có tính siêu thực không, hay chỉ là “ngoa ngôn”, là nhân cách hóa như tác giả nọ đã phê phán? Như tôi đã nói, sự xác nhận tính siêu thực là dựa vào tính ngẫu nhiên, tính phi logic, không có thực của những hình ảnh thơ... Rõ ràng: Khi gặp em/ Anh thấy cơn khát của cánh đồng/ Cánh đồng bị rang trên cái chảo mùa hạ/ Móng tay của nắng để lại những vết xước hình mắt lưới/ Những vết bỏng phồng rộp như bánh đa nướng/ Trên da thịt đất... không thể có thực được. Bởi khao khát tình yêu chỉ là một trạng thái tâm lý vô hình. Chỉ bằng tưởng tượng, bằng một giấc mơ trong khi thức, người ta mới dựng được những tầng hình ảnh chồng chất như thế. Cũng như P.Éluard diễn tả ngày tận thế : Với con mắt của lâu đài hoang tàn, nhìn mùa xuân bằng cái nhìn sau cùng, lại qua một đường hầm ngăn cách... Vậy, thơ có siêu thực hay không không phải do ngoa ngôn hay không ngoa ngôn mà do toàn bộ tính chất của nó. Tương tự, những câu thơ của Nguyễn Quyến cũng siêu thực không phải ở chỗ thao tác nhân cách hóa mà ở toàn bộ phương pháp sáng tác. Như hai câu: Cây đa dứt hết chùm râu cổ thụ/ Rồi phục sinh râu bằng tiếng hát của bầy trẻ và hương trầm, thì chúng siêu thực ở chỗ cây đa không thể phục sinh râu bằng tiếng hát hương trầm được, nếu có thì chỉ có thể phục sinh bằng phân bón và thời tiết tốt thôi! Tương tự như thế, Những chiếc lá của Nguyễn Bình Phương cũng không thể biếc xanh bởi giấc ngủ tự tin tràn trề của cây được. Tôi biết, còn nhiều người hiểu siêu thực tức là những gì hư ảo, ma quái. Không phải, siêu thực là tất cả, nhưng là một hiện thực trong giấc mơ sáng tạo của người  nghệ sĩ, nó có dấu vết, có tính chất của hiện thực, nhưng không tuân theo cái logic của hiện thực vốn  có. Chỉ là thế thôi !   
          Cuối cùng, rất mong các báo,  không mở thì thôi, đã mở ra các cuộc tranh luận thì nên để người ta được tranh luận cởi mở đến tường tận, mới mong có được những hiệu quả.                                                                       
Phú Nhuận 
trưa 1 -1998
(Tạp chí Sông Hương, 8 - 1998)