ĐÔNG LA
BẢN NHÁP TIẾP, VỀ TRÌNH ĐỘ, TÀI VĂN CHƯƠNG VÀ KHẢ NĂNG THẨM ĐỊNH VĂN CHƯƠNG CỦA NGUYỄN QUANG THIỀU
Hôm nay, tôi sẽ nháp về phần tài văn chương, khả năng thẩm định văn chương của Nguyễn Quang Thiều. Ngoài trình độ về chính trị tư tưởng và tư cách đạo đức, đó là hai phẩm chất tối quan trọng của một người giữ chức Chủ tịch HNV VN như Nguyễn Quang Thiều. Trước khi bàn cụ thể, tôi xin dông dài đôi chút.
Năm 1997, với lĩnh vực lý luận phê bình thì tôi còn là cây viết “trẻ”. Tôi đã viết và được đăng trên Tạp chí VNQĐ bài phản bác nhận thức sai trái về đổi mới văn chương trong cuốn “Ngày văn học lên ngôi” của Đỗ Minh Tuấn, người có mồm miệng ghê gớm, luôn coi Trần Mạnh Hảo không ra gì. Tôi đã được tặng thưởng năm đó. Thừa thắng xông lên, tôi viết bài thơ dài “Tổ quốc-nửa bàn chân dính bùn và máu” dự cuộc thi “Đón chào Giao thừa Thiên niên kỷ” của Tạp chí. Bài thơ đã được xếp đầu nửa chặng hơn 4000 bài, và được tặng thưởng năm đó. Tặng thưởng phát ở Bắc, tôi lại trong Nam, nên đã nhờ “bạn thân” Nguyễn Quang Thiều đi nhận hộ. Tôi ngạc nhiên là Thiều từ chối, và tôi còn ngạc nhiên hơn khi bình thường Thiều mỗi khi đăng thơ tôi thì hay khen để lấy lòng, nhưng đến bài đó thì Thiều đã không chịu được sự thành công của tôi, đã thể hiện sự đố kỵ khi buột miệng nói “Thơ thế thì tôi làm một lúc cả đống”. Với người khác Thiều có thể thể hiện sự kiêu ngạo, độp thẳng vào mặt người ta, như hay khoe tôi đã nói với người này, người nọ, kiểu như: “Tài như mày thì không thể so với tao được” hoặc “Thơ như ông thì không thể sánh với tôi được” v.v... Chính vậy, khi bị TMH chê làm thơ lai Tây giả cầy, như thơ dịch xổi, Thiều mới tuyên bố cái ý tai tiếng, “Thơ Việt chưa vượt qua được vũng bùn tiểu nông”. Thực tế, Thiều nói về thơ mình chưa vượt qua được cái vũng bùn tiểu nông đó thì đúng hơn. Thơ Thiều quanh quẩn rất nhiều ở cái làng với bờ sông, bến nước, con thuyền; với đầm, hồ, ao, chuôm; với lúa nước, đám bèo, tơ nhện, mo cau; với con bống, con ốc, bầy chó, v.v… Thiều không có câu thơ, tứ thơ lớn có tầm tư tưởng, mang tính khái quát, nếu có lại sai sự thật, mang tư tưởng chống chế độ, nên vô giá trị, độc hại. Tôi có thể tự tin nói rằng toàn bộ thơ Thiều dù có tinh lọc, cô đọng cũng không có giá trị bằng một câu mở đầu bài thơ dài của tôi mà Thiều bảo “làm một lúc cả đống” nói trên:
Tổ quốc! Có phải bão giông của thời gian hay của đất trời đã thổi cong cả dáng hình của mẹ?
Và không chỉ ngợi ca, về những yếu kém, đói khổ của đất nước sau chiến tranh, tôi cũng viết trong bài “Ơi đất nước mang hình dấu hỏi”:
Như một bác nông dân trở về sau khốc liệt cuộc chiến tranh
Đã tạnh rồi đạn bom
Đã tan rồi lửa khói
Nhưng vẫn còn vẹn nguyên căn bệnh mãn tính của lịch sử
Cái nghèo khổ truyền đời
Nên tự bao giờ đất nước đã quặn mình thành dấu hỏi
Chảy dọc theo Người biển mặn mồ hôi
Có cho ăn kẹo Thiều cũng không thể viết được câu “Chảy dọc theo Người biển mặn mồ hôi” như vậy. Vậy Thiều viết gì và viết như thế nào?
***
Thiều làm rất nhiều thơ về mặt xấu của xã hội VN.
Chế độ xã hội nào cũng có những yếu kém, sai trái, việc các nhà văn có tư tưởng, có trách nhiệm viết những tác phẩm phản biện, mang tính xây dựng, như hồi chuông cảnh báo, như các bác sĩ chữa bệnh là vô cùng cần thiết. Họ chính là những nhà văn bản lĩnh, có nhân cách cao quý, đáng khâm phục Riêng bản thân tôi đã viết một loạt truyện ngắn phản ánh những vấn đề còn thiếu sót, yếu kém, tệ nạn của xã hội VN, nhất là công tác cán bộ, việc kết bè, đấu đá, giành giật quyền chức, danh lợi. Những tác phẩm viết đã 30-40 năm nhưng vẫn mang tính thời sự nóng hổi, vẫn là những tiếng chuông cảnh báo, cấp thiết. Còn những nhà văn từng được những thế lực chống chế độ VN ca ngợi, từng được những người có tư tưởng đổi mới lộn ngược tung hô, như Dương Thu Hương, Vũ Thư Hiên, Nguyễn Huy Thiệp, Bảo Ninh, v.v…, và Nguyễn Quang Thiều là những tác giả không phải chống những sai trái, yếu kém của chế độ mà là chống chính chế độ. Họ viết phóng đại, xuyên tạc những mặt xấu trong xã hội để thể hiện sự chống đối, từ chống ý thức hệ, chống Đảng lãnh đạo, chống lãnh tụ Hồ Chí Minh, chống lại lịch sử cách mạng, đến chống thể chế. Viết vậy, họ thể hiện sự cơ hội, trở cờ, mong ngóng danh và lợi từ những thế lực chống thể chế VN ở nước ngoài ban cho. Dương Thu Hương, Vũ Thư Hiên hiện đã được Pháp cưu mang; Nguyễn Huy Thiệp từng khoe in sách ở Pháp được trả khoảng 80.000 USD; Bảo Ninh từng được Mỹ thưởng cho cuốn “Nỗi buồn chiến tranh” khoảng 40.000 USD và bao nhiêu là “vinh quang”; còn Nguyễn Quang Thiều, một lần báo chí chính thống đã đưa tin, Thiều đã được một phụ nữ tài trợ tiền để chọn in sách của các tác giả VN. Tất cả chỉ là phần nổi nhỏ của tảng băng, còn phần chìm lớn mờ ám thì chỉ có các cuộc điều tra của cơ quan chức năng công minh thì mới có thể biết rõ được.
Về chuyện Nguyễn Quang Thiều đã làm rất nhiều thơ phản ảnh những mặt xấu của xã hội VN, nhưng phần nhiều phóng đại, không đúng, xuyên tạc.
Trong bài “Những người đàn bà gánh nước sông”, bài chủ yếu được chọn làm tên tập thơ “Những người đàn bà gánh nước sông” (NXB Văn học, 1995), Nguyễn Quang Thiều đã ám chỉ cuộc mưu sinh của dân VN dẫm chân tại chỗ, mẹ gánh nước sông thì truyền nghề cho con gái gánh nước sông, cha mang giấc mơ đi câu nhưng “con cá thiêng quay mặt khóc” thì đến đời con trai cũng “con cá thiêng quay mặt khóc”. Trong bài “Bầy chó của tôi” (Tập Sự mất ngủ của lửa), Nguyễn Quang Thiều đã ám chỉ cuộc mưu sinh của làng quê Việt khốn khổ, man rợ như bầy chó phải đổ máu để kiếm ăn, “Con đến sau lại liếm máu bầy mình”! Thực tế đúng là có thời kỳ dân ta khổ thật, nhưng không có cảnh kiếm ăn man rợ, tàn khốc như vậy, Thiều đã viết sai sự thật. Mà văn chương sai sự thật thì giá trị gì? Còn so với mức sống chung của người dân VN hôm nay đã tăng hơn rất nhiều thì Thiều đã chứng tỏ có cái tầm nhìn thiển cận, hạn hẹp, không vượt qua được cái bến sông, cái ngõ hẹp nhà mình. Từ cái cách nhìn u ám đó, trong bài “Dưới trăng và một bậc cửa” (Tập Những người đàn bà gánh nước sông”, Nguyễn Quang Thiều cho rằng nguyên nhân của sự trì trệ, man rợ đó chính là do: “cố hương” của mình “mê mẩn và lạc đường/ Trong những cánh rừng đầy quỷ”; và trong bài “Những người đàn bà mùa đông”, Thiều viết những người phụ nữ “anh hùng, bất khuất, trung hậu, đảm đang” của chúng ta như bị giam trong đáy “lưới”, thụ thai không sinh ra con trẻ mà chỉ đẻ ra những quả trứng ung, một đất nước không sinh sôi tất sẽ tuyệt diệt!
Tất nhiên đó chỉ là cái nhìn bệnh hoạn của Nguyễn Quang Thiều bởi Thiều rất dốt, không có trình độ, không có nhận thức đúng về chính trị. Thiều cần phải hiểu thời kỳ khó khăn nhất của nước ta do sau Giải phóng 1975, nước ta bị đột ngột cắt viện trợ, phải gánh “cái của nợ” VNCH, chiến tranh hai đầu biên giới, bị bao vây cấm vận, lại chưa có kinh nghiệm làm kinh tế, v.v… chứ không phải do “cố hương” của mình “mê mẫn và lạc đường/ Trong những cánh rừng đầy quỷ”.
Trong bài “Con bống đen đẻ trứng” đề tặng hai đứa con Thuật, Ngân, Nguyễn Quang Thiều cũng vẽ ra những khung cảnh rùng rợn, toàn cảnh tan vỡ, sụp đổ trên quê hương, đất nước mình: “Quanh các con tôi thế giới đang tự sát”; “Những trái cây tự rơi vào thuốc độc”; “những đền chùa gục ngã trước những pho kinh phản bội”; “Những ô kính tự tát vỡ mình”; “Những ngôi nhà cao tầng tự chặt xương sống mình” …
Trong khúc “Hồi tưởng tháng 9” (tập Châu thổ (Thơ tuyển, NXB Hội Nhà Văn 2010) Nguyễn Quang Thiều cũng viết về chuyện “lạc đường”, ám chỉ dưới ánh sáng của Đảng, người dân Việt Nam đã bị “lạc ngay trước cửa ngõ nhà mình”, cho ở VN, chỉ những người mù mới không bị lạc đường. Cũng mô-tip lộn ngược đó, với cấu tứ khác, trong “Bài ca những con chim đêm”, Nguyễn Quang Thiều viết: “trong ồn ã những ngôn từ khiếp nhược và lừa dối” chỉ “người đàn bà bị câm” mới có thể mang thai và “sinh ra được đứa bé cất lên được tiếng nói, chỉ ra con đường đến với hạnh phúc đích thực”. Trong bài “Hội giả trang”, Nguyễn Quang Thiều đã cho xã hội VN là xã hội của “những tay phù thủy cao tay”, " giả trang bằng chính mặt mình”. Buồn cười ở chỗ, những ngày hôm nay Thiều đã chứng tỏ mình đã “tiên tri” về sự “giả trang” trong cái bộ mặt “Chủ tịch HNV” của chính mình.
Đặc biệt, những năm gần đây, Nguyễn Quang Thiều không chỉ dừng lại ở lối viết phúng dụ, ám chỉ trong thơ mà nhân ngày Trung Quốc xâm lược biên giới nước ta, Thiều đã viết hụych toẹt ra, cho có cuộc chiến đó “bởi có những kẻ phản bội dân tộc”. Viết vậy Thiều đã xuyên tạc, vì sự thật, Trung Quốc xâm lược Biên giới VN là do ta không chịu liên minh với Trung Quốc để đánh Liên Xô, và sau 1975, ta đã đánh tư sản mại bản Ba Tàu Chợ Lớn. Chưa hết, Thiều còn ám chỉ đường lối ngoại giao của nước ta đối với TQ là sự “phản bội”, là “xảo ngôn”, là “xảo quyệt”; v.v…
***
Ngoài cách viết phúng dụ, ám chỉ, thể hiện tư tưởng phản chế độ, sau mấy chục năm Nguyễn Quang Thiều cũng hăm hở, vênh vang đổi mới thơ theo Trần Dần, viết những câu thơ thô tục, dơ dáy, phản luân thường đạo lý.
Trong bài thơ “CÂU HỎI CUỐI NGÀY” (Tập Châu thổ, thơ tuyển, Nxb Hội Nhà Văn, 2010) Nguyễn Quang Thiều diễn tả cái tâm trạng mà theo Trần Mạnh Hảo là kẻ “thô bỉ”, “thiếu văn hoá” khi gặp người đàn bà, con gái nào cũng nghĩ đến chuyện ngủ với người ta thế nào? Theo tôi thì Thiều viết vậy không chỉ là người “thiếu văn hoá” mà còn mất nhân tính, chỉ mang bản năng của một con đực, thú tính!
Nguyễn Quang Thiều cũng bỏ tâm sức làm bài thơ nhìn trộm đàn bà “Tắm trong toilet không có rèm che”, nhìn trộm “Cuộc làm tình ban ngày/ Của những kẻ thất nghiệp”. Và, như còn sợ thơ mình thua mới “anh em Sài Gòn”, Nguyễn Quang Thiều đã viết trong tập “Lò mổ”:
“Ngáp ngủ đã đêm qua.
Chửi tục đã đêm qua.
Gạ gẫm làm tình đã đêm qua.
Âm hộ đã đêm qua.
Dương vật đã đêm qua...”.
***
Không chỉ sai trái, yếu kém trong sáng tác thơ, Nguyễn Quang Thiều cũng thể hiện trình độ văn chương yếu kém, và quan điểm thẩm mỹ sai trái khi tâng bốc một số tác giả, tác phẩm.
Nguyễn Quang Thiều từng ca ngợi Nguyễn Huy Thiệp là “Nhà văn tìm đạo cho dân”, trong khi NHT “nôn mửa vào cuộc kháng chiến giải phóng dân tộc”. Nguyễn Huy Thiệp viết văn cho Anh hùng Dân tộc Quang Trung như tay du côn, giặc cỏ, “Nguyễn Ánh mới là nòi vương giả”; trong truyện ngắn “Tướng về hưu” cho việc BS phụ sản mang xác thai nhi về nấu cho chó, cho lợn ăn là “chẳng quan trọng gì”; mượn văn chương chửi đồng nghiệp bề trên: “nhét cứt vào mồm thằng Khải (ám chỉ Nhà Văn Nguyễn Khải) tài như cái đấu mà dám chê tiệc của vua nhạt”, và “xẻo dái thằng Thi (ám chỉ Nhà Văn Nguyễn Đình Thi) xem có còn dê được không?”; viết về con người với con mắt bất nhân, về người nông dân: “Chẳng có khuôn mặt nào đáng là mặt người. Mặt nào trông cũng thú vật, đầy nhục cảm, không đểu cáng, dối trá thì cũng nhăn nhúm đau khổ”, về phụ nữ: “Đàn bà không có thơ đâu… Thơ phải cao cả. Mỗi tháng các bà hành kinh một lần thì cao cả gì”; về chuyện loạn luân, đã biện minh chuyện bố chồng bắc ghế nhìn trộm cô con dâu tắm: “Đàn ông chẳng nên xấu hổ vì có con buồi”; Nguyễn Huy Thiệp còn viết về chính trị: “Chính trị rặt trò mờ ám bỉ ổi”; về văn chương: “Văn chương là thứ bỉ ổi bậc nhất”.
Về cuốn “Nỗi buồn chiến tranh” của Bảo Ninh, Nguyễn Quang Thiều cũng tâng bốc là “chạm vào mẫu số chung nhân loại”, nhưng chính Bảo Ninh đã thú nhận mình xuyên tạc sự thật khi miêu tả đội quân anh hùng toàn là hiếp dân lành, hành lạc tập thể, hút hồng ma, trốn chạy, chôn sống tù binh, con ra trận bố dặn đừng ngu mà chết vì lý tưởng, và coi cuộc kháng chiến vĩ đại giành lại chủ quyền và nền độc lập của dân ta là “nỗi buồn”.
***
Tóm lại, nếu Nguyễn Quang Thiều chỉ là một nhà văn bình thường, dù Thiều có giỏi luồn lách, tham nhũng lợi danh, tôi chẳng chấp làm gì. Đến nay Thiều đã được hầu hết các giải thưởng văn chương trong nước, trừ Giải Hồ Chí Minh, tôi đã không hề đố kỵ, ganh gét, trong khi tôi biết rất rõ sự hạn chế, bất tài, sai trái của Nguyễn Quang Thiều nhưng tôi chưa một lần viết ra, thậm chí còn viết nhiều để bảo vệ Thiều khi bị Trần Mạnh Hảo, Đỗ Hoàng chê bai dữ dội tài thơ của Thiều.
Nhưng với tư cách Chủ tịch Hội Nhà Văn VN, Nguyễn Quang Thiều đang xây dựng tổ chức Hội theo khuynh hướng phản văn chương, phản văn hoá, biến Hội Nhà Văn VN như cái ổ covid-19 lây lan thì thật nguy hiểm, bởi nó sẽ phá huỷ cuộc sống tinh thần người dân. Mà theo bài học từ chuyện Liên Xô sụp đổ, Nhà văn Yury Boldarev đã viết về tác dụng huỷ diệt của sự phản văn hoá, của “Hàng triệu ấn phẩm mang vi trùng” đã làm mục rữa tinh thần người dân Liên Xô, mạnh hơn cả quân đội Đức Quốc xã với hàng triệu quân tinh nhuệ và vũ khí hàng đầu, đã góp phần làm LX tan vỡ. Tổng thống Nga Putin, người được hưởng danh lợi nhất từ sự sụp đổ đó vẫn cho là đại thảm hoạ; bản thân ông khi ấy phải chạy xe kiếm sống. Nhưng nước Nga là cường quốc nên sẽ dần hồi phục, còn VN nếu chế độ sụp đổ sẽ lại là nội chiến, và với truyền thống “bán nước” của một nhóm người dù rất nhỏ thôi thì sẽ lại là sự can thiệp, sự xâu xé của các cường quốc.
Vì vậy, hiểu được sự tối nguy hiểm đó, tôi buộc phải lên tiếng!
22-12-2021
(Ngày thành lập QĐND VN)
ĐÔNG LA