ĐÔNG LA
BÀN VỀ CHÍNH NGHĨA
Trong lời mở đầu cuốn Bóng
tối của ánh sáng tôi đã viết:
“Có những cuộc tranh luận không
bao giờ đi tới hồi kết. Và còn gay cấn hơn nữa khi người ta còn chia ra chiến
tuyến; mà khi đã coi nhau như kẻ địch, mọi lý lẽ tất sẽ vô nghĩa. Nhưng dù
phe nào cũng phải thừa nhận cướp của, giết người phải là xấu; và cao xa hơn,
tự vệ phải là chính nghĩa và xâm lược phải là phi nghĩa, v.v... Đó là những
điều hiển nhiên, chỉ có những người phi nhân tính mới hiểu ngược lại. Nhưng
thật kỳ lạ, trong thực tế ta vẫn gặp những người như vậy; và còn quái lạ hơn
nữa, họ còn “xả thân” vì cái “lý tưởng” đó; họ lại không thuộc lớp người vô
học lưu manh mà là trí thức”.
Chính vì như thế, trong những ngày tháng 4 hôm nay,
tôi lại như một người lẩn thẩn, ngồi gõ máy tính bàn về chuyện “chính nghĩa”,
cái bài học luân lý vỡ lòng, tưởng đến một đứa trẻ con mới biết đọc chữ cũng
hiểu được này.
Cuộc chiến giữa Việt Nam với Pháp rồi với Mỹ mà
chiến thắng thuộc về Việt Nam, làm chấn động thế giới, từng phải đổi bằng núi
xương sông máu, nguyên nhân khởi đầu có lẽ phải tính từ ngày 8 tháng 2 năm 1762, ngày sinh của Nguyễn Ánh, người
mà để chống lại Nguyễn Huệ giành quyền lực, đã “cõng rắn cắn gà nhà”,
qua một mối cơ duyên với Bá Đa Lộc (Pigneau de Behaine), một Giám mục người
Pháp. Năm 1777, Nguyễn Ánh trốn thoát khỏi
Nguyễn Huệ chạy ra đảo Thổ Chu và đã gặp Bá Đa Lộc ở đó. Sau đó chính ông giám mục này đã “xui”
Nguyễn Ánh cầu viện Pháp. Nguyễn Ánh đã sẵn sàng giao ấn tín và con mình làm
con tin, nhờ Bá Đa Lộc làm Đặc sứ yết kiến Vua Pháp Louis XVI, ký Hiệp
ước Versailles,
xin nhường đảo Côn Lôn và cho Pháp độc quyền sử dụng cảng Đà Nẵng để đổi
lấy sự viện trợ về quân sự.
Nhưng rồi
Nguyễn Huệ, vị vua Quang Trung bách chiến bách thắng, từng khiến xác quân
Xiêm mà Nguyễn Ánh cầu viện chất nghẹt cả dòng sông Tiền trong trận Rạch Gầm-Xoài Mút; rồi xác quân
xâm lược nhà Thanh chất cao như núi ở Đống Đa, lại phải chịu thua số mệnh, đã
bị chết bất đắc kỳ tử khi chuẩn bị Nam tiến chinh phạt Nguyễn Ánh. Nước
Pháp đã không phải tốn “một xu” nào trong việc Nguyễn Ánh giành được quyền
lực, nhưng cái Hiệp ước Versailles định
mệnh kia vẫn là cái cớ cho Pháp thực hiện dã tâm xâm lược. Giữa thế
kỷ 19, sự phát triển mạnh mẽ về kinh tế đã thúc đẩy Pháp mở chiến
tranh giành giật thuộc địa và Việt Nam đã trở
thành nạn nhân. Một ủy ban có tên là Commission
de la Cochinchine đã được vua Napoléon III chấp thuận, và 1858, đã chọn Đà Nẵng làm
điểm khởi đầu trong kế hoạch đánh chiếm Việt Nam.
Thế rồi
hơn một thế kỷ rưỡi sau đó, máu đã không ngừng đổ trên dải đất hình chữ S
thân yêu của chúng ta, gây ra bao nhiêu tang tóc, và oái oăm nhất là đến tận
bây giờ, thù hận vẫn còn ngút trời, không phải giữa người Việt với quân xâm
lược mà lại là giữa người Việt với nhau, nhất là ở một bộ phận nhỏ những
người Việt Hải ngoại, bởi sự cố chấp và cái nhìn phi lịch sử.
Rõ ràng
khi Pháp xâm lược, những cuộc kháng chiến của quân dân nhà Nguyễn đã nổ ra đều
bị thất bại, đến khi Vua Hàm Nghi, rồi Vua Duy Tân bị Pháp bắt đi đầy, thì
dân ta đã thực sự mất nước. Vậy thì bao nhiêu vua quan bù nhìn mà Pháp dựng
lên sau đó để thực hiện sự đô hộ, rồi đến lượt Mỹ thế chân Pháp lập nên chính
thể VNCH, làm sao có được sự chính danh; rồi những đội quân được hình thành
trong những thể chế đó để chống lại công cuộc giành độc lập của chính đồng
bào mình, sao có thể là chính nghĩa?
Chính vì không có chính danh và chính nghĩa như vậy, dù có
sự bao bọc bởi hai cường quốc có tiềm lực kinh tế và quân sự mạnh hơn nhiều
lần, với sự tham chiến trực tiếp của nửa triệu quân Mỹ và chư hầu, cuối cùng
Mỹ và VNCH vẫn phải thất bại trước ý chí giành độc lập của dân ta.
Giờ đây để biện
hộ cho việc tiếp tay cho sự xâm lược, người ta vẫn cố tình biến cuộc chiến
giành độc lập của dân ta thành cuộc chiến ý thức hệ, đồng nhất quan hệ giữa
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa với Liên Xô và Trung Quốc giống như quan hệ của
VNCH với Pháp và Mỹ.
Khi
Bác Hồ đọc Tuyên ngôn độc lập, khai
sinh nước Việt Nam mới, Pháp quay lại, chính quân đội của nhà nước mới
ấy đã với cách đánh du kích, cướp súng của địch đánh địch. Rồi chính ông KS
Trần Đại Nghĩa đã chế tạo được súng badôca, bắn cháy được xe tăng; rồi SKZ,
có thể đánh phá tan tành các lô cốt địch có tường bê tông cốt thép dày hơn 1
mét, làm kinh hồn bạt vía quân Pháp. Từ vị thế của một nhà nước chống thực
dân đó chúng ta mới nhận được viện trợ của các nước. Đến tận Chiến dịch Điện
Biên Phủ, những đơn vị phòng không đầu tiên của Quân đội Nhân dân Việt Nam được huấn luyện ở Liên Xô mới về
nước tham chiến.
Còn
VNCH không phải được ra đời từ những người VN mà đã được Pháp, sau khi quay
lại, dựng lên. Ngày 8
tháng 3 năm 1949,
Tổng thống Pháp Vincent Auriol và Cựu hoàng Bảo
Đại đã ký Hiệp ước Elysée, thành lập Quốc gia Việt Nam trong khối Liên
hiệp Pháp, đứng đầu là Quốc trưởng Bảo
Đại, vị vua mà ngày 25 tháng 8 năm 1945, đã đọc bản Tuyên ngôn Thoái vị trước cửa Ngọ Môn.
Như vậy thực chất Bảo Đại hoàn toàn không còn vai trò gì với VN, mà chỉ có
vai trò trong sự kiện trên giúp Pháp xây dựng một chính quyền bản xứ người
Việt để làm đối trọng với Việt Nam Dân chủ Cộng hòa; thực chất là để
thuyết phục Mỹ viện trợ kinh tế và quân sự để có thể tiếp tục đứng chân tại Đông
Dương. Rồi đến khi Pháp thua tại Điện Biên Phủ, Mỹ thế chân Pháp, không thực
hiện Hiệp định Giơ-ne-vơ, Ngô Đình Diệm đã xuất hiện. Theo GS Trần Chung Ngọc:
“Đã viết về “Cụ Hồ” mà lại không viết về
“Cụ Diệm” thì quả là một điều thiếu sót, vì dù sao ông Diệm cũng đã là Tổng
Thống của miền Nam trong 9 năm . Nhưng bài này tuyệt đối không phải để
đối chiếu so sánh “Cụ Diệm” với “Cụ Hồ” vì không ai có đôi chút hiểu biết lại
đi làm công việc vô trí này. Tại sao? Vì một đằng suốt đời sống
gian khổ, tổ chức, tập họp những người yêu nước chống Pháp, mong giành lại
độc lập và thống nhất cho đất nước [Cụ Hồ], một đằng làm quan cho Pháp, bắt
người yêu nước chống Pháp tra khảo, rồi nằm yên vị trong các Trường Dòng Công
Giáo ở Mỹ, Bỉ trong khi nước nhà sôi bỏng vì chiến tranh, kháng chiến chống
Pháp trở lại Đông Dương, rồi phút cuối trở về làm “chí sĩ cứu tinh dân tộc”
[Cụ Diệm].
Không ai có thể phủ nhận là chính cựu Hoàng
Bảo Đại đã bổ nhiệm ông Diệm về làm Thủ Tướng. Nhưng những chi tiết từ
đâu mà cựu Hoàng Bảo Đại bổ nhiệm ông Diệm thay vì không phải ai khác thì rất
ít được viết đến. Có chăng chỉ là sơ sài như ông Diệm được Hồng Y Spellman
ủng hộ”; “Sau Điện Biên Phủ, Eisenhower muốn ủng hộ một chính phủ mở rộng hơn
là chính phủ của ông Vua, người không được quần chúng ủng hộ mấy vì đã từ lâu
bị coi như là một bù nhìn của Pháp và Mỹ. Do đó Mỹ muốn có một người
Quốc Gia ở địa vị cao ở Nam
Việt Nam
để làm giảm sự hấp dẫn của Hồ Chí Minh. Kết quả là Bảo Đại đã cho Diệm một
chức vụ mà Diệm vẫn muốn – Thủ Tướng. [Về chuyện này Bernard Fall viết
trong The Two Viet-Nams, trang 244: “Ý thức được rằng mình đang ném ngai
vàng đi, Bảo Đại bắt Diệm phải thề trung thành với ông, và nhiều nhân chứng
có thẩm quyền quả quyết là Diệm cũng còn quỳ xuống trước Hoàng Hậu Nam Phương
là sẽ làm hết sức trong phạm vi quyền lực của mình để “giữ ngai vàng cho Hoàng
Tử Bảo Long, con của Bảo Đại” (Fully realizing that he was throwing his
throne away, Bao Dai allegedly made Diem swear a solemn oath of allegiance to
him, and several authorative witnesses affirm that Diem also swore on his
knees to Empress Nam-Phuong that he would do everything in his power “to
preserve the throne of Viet-Nam for Crown Prince Bao-Long”, son of Bao Dai.)
Nhưng chúng ta đã biết, chỉ hơn 1 năm sau, Diệm đã dùng tiền của CIA để tổ
chức cuộc Trưng Cầu Dân Ý gian lận để phế bỏ Bảo Đại và lên làm Tổng
Thống. Về vụ này Bernard Fall cũng viết, trang 257: “Trong hầu hết các
nơi bỏ phiếu, có nhiều ngàn phiếu nhiều hơn là số cử tri đã bỏ cho
Diệm. Thí dụ, Ở vùng Saigon - Chợ Lớn, đếm được 605,205 phiếu trên số
450,000 cử tri ghi danh”. (In nearly all electoral areas, there were
thousands more “Yes” votes than voters. In the Saigon-Cholon area, for
example, 605,025 votes were cast by 450,000 registered voters)].
Tới đây
thì chuyện chính nghĩa mới cả phi nghĩa đã quá rõ, không còn gì phải nói nữa.
Nhưng cái dân Việt mình vốn thù dai, những người chống cộng lại nói dân ta đã
thắng trong chiến tranh nhưng lại bị thất bại khi bị đô hộ bởi Chủ nghĩa Cộng
sản. Những lời nói như vậy thực sự chỉ là tiếng kêu của con vẹt, vô nghĩa lý,
bởi họ chẳng hiểu Chủ nghĩa Cộng sản mà người dân Việt đi theo là cái gì. Dân
ta chỉ đi theo cái Chủ nghĩa Cộng sản tốt đẹp, cũng như bản thân tôi đã ca
ngợi cái chủ nghĩa đó trong bài Các Mác
– một tình yêu bao la, đó chính là cái chủ nghĩa kêu gọi đấu tranh xóa bỏ sự bất công và nô dịch,
để tiến tới một xã hội mà mỗi người “làm
theo năng lực, hưởng theo nhu cầu”, và “sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện để phát triển sự tự do
của mỗi người” (Tuyên ngôn ĐCS).
Tuy nhiên, từ lý thuyết biến thành thực tế là cả một quá trình và không tránh
khỏi nhiều sai lầm, và chúng ta cũng phải thừa nhận là còn lâu lắm mới có thể
có một xã hội có những đặc tính của Chủ nghĩa Cộng sản; và trong thực tiễn
cũng chưa hề có, có chăng chỉ có những sự nhân danh mà thôi. Và trong sự nhân
danh đó, có chủ nghĩa cá nhân độc tài, có chủ nghĩa phong kiến bạo chúa, có
chủ nghĩa diệt chủng v.v… khoác áo Chủ nghĩa Cộng sản, như CNCS thanh trừng
kiểu Stalin, như CNCS kiểu Mao Trạch Đông phát động Cách mạng Văn hóa triệt
hạ chính đồng chí mình và CNCS kiểu diệt chủng của Pôn Pốt! Còn ở nước ta, dù
cũng có sai lầm trong CCRĐ và những ấu trĩ trong những bước đầu xây dựng đất
nước sau những năm tháng dài chiến tranh, nhưng với việc đi theo “lý tưởng
cộng sản” mà từ năm 1945 với 2 triệu người chết đói, không có vị thế gì trên
trường quốc tế, đã trở thành một nước VN ngày nay; dù còn nhiều yếu kém, vẫn
có thể hiên ngang sánh vai với tất cả các nước trên thế giới, kể cả Pháp và
Mỹ. Còn những ngày hôm nay, chúng ta vẫn đi theo lý tưởng Cộng sản, nhưng
phải thừa nhận rằng, nền tảng mọi mặt, từ khoa học, văn hóa đến kinh tế, chúng
ta vẫn còn ở giai đoạn xã hội tư bản, còn lẫn tàn dư của xã hội phong kiến.
Mà theo Mác, Xã hội Cộng sản chỉ hình thành trên nền tảng Xã hội Tư bản cực
phát triển, với những mâu thuẫn cực điểm. Như ta thấy ở Mỹ, có những cá nhân
giàu bằng cả quốc gia nhưng vẫn có người vô gia cư, sống bằng sự cứu tế. Tôi thấy
nước Mỹ thật kỳ lạ, từng gieo tai ương khắp thế giới, làm khổ đau bao dân tộc
và cả chính người dân nước mình, nhưng lại là xứ sở ra đời bản Tuyên ngôn giải phóng nô lệ bởi Tổng
thống Abraham Lincoln, ngày 22 tháng 9 năm 1862, y như việc hiện thực hóa một phần
nào đó tinh thần của bản Tuyên ngôn
đảng Cộng sản của Mác, ra đời trước đó 14 năm, 21 tháng 2 năm 1848. Và những
ngày hôm nay, cũng chính nước Mỹ đã xuất hiện những dấu hiệu của CNCS, đã xuất
hiện tầng lớp “làm theo năng lực, hưởng
theo nhu cầu”, và những ông tỷ phú như Bill Gates và Warren Buffett đã
sử dụng tiền của cá nhân mình vào những mục đích công cộng trên toàn thế
giới.
Vì
thế, tôi thấy những người chống Cộng thực ra họ chống cái không phải, chống
cái do sự thiếu hiểu biết họ đã tưởng tượng ra mà cuộc chiến tranh lạnh đã vẽ
ra trong đầu óc họ.
Về
chuyện người ta cũng hay bới móc và phóng đại số người chết trong Cải cách Ruộng đất để tố cáo tội ác và
tính phi luân của Chế độ Cộng sản ở nước ta, trong khi những nhà lãnh đạo đã
nhận sai lầm, đã tích cực sửa sai, đã cách chức đến cả tổng bí thư. Ngược
lại, những người này lại lờ đi chuyện Ngô Đình Diệm đã đàn áp và thủ tiêu các
giáo phái và đưa ra luật 10/59 lê máy chém khắp nơi để diệt cộng; nhà tù đã
mọc lên nhiều hơn trường học, với những cái tên khét tiếng như nhà ngục Chín hầm ở Huế, nhà tù Côn Đảo,
nhà tù Phú Quốc v.v… Những hành động tàn sát chính đồng bào mình đó không
chỉ là hành động nhất thời mà còn được coi là quốc sách. Mức độ tàn ác quá
lớn làm mất lòng dân chúng đến độ đã làm phật ý cả Mỹ, để rồi Diệm đã phải
chịu quả báo nhãn tiền, bị giết bởi chính thuộc cấp của mình, với sự bật đèn
xanh của CIA. Ấy vậy mà đến tận giờ vẫn không ít người tôn thờ Ngô Đình Diệm
và tính chính nghĩa của “Nền Đệ nhất
Cộng hòa”. Hãy xem đoạn văn dưới đây gởi những quan thầy Pháp của Ngô
Đình Thục, anh ruột Ngô Đình Diệm, người đã dựa vào thế lực công giáo, giúp
em mình đoạt quyền từ Bảo Đại, để xem rõ hơn cái tính “chính nghĩa” đó:
"...Với tư cách là người con của một gia đình
mà thân phụ tôi đã phục vụ nước Pháp ngay từ khi Pháp mới đến An-nam, và đã
nhiều lần đưa mạng sống cho nước Pháp trong các cuộc hành quân mà cha tôi
(Ngô Đình Khả) cầm đầu, dưới quyền Nguyễn Thân, chống lại các kẻ nổi loạn do
Phan Đình Phùng chỉ huy, tại Nghệ-an và Hà-tịnh.
Có thể tôi lầm, tuy nhiên, thưa Đô Đốc,
tôi xin thú thực là không tin – cho đến khi được chứng minh ngược lại – rằng
các em tôi đã phản lại truyền thống của gia đình chúng tôi đến như thế, một
gia đình đã tự mình gắn liền với nước Pháp từ lúc ban đầu, trong khi ông cha
của những quan lại bây giờ hầu hết đều chống lại Pháp...."
Như
vậy theo logic, “Đệ nhất Cộng hòa”
đã không chính nghĩa thì “Đệ nhị Cộng hòa” sao chính nghĩa?
Hãy xem ông Tổng thống nền “Đệ
nhị cộng hòa” Thiệu trong giờ phút cuối cùng tại vị, ngày 21 tháng Tư năm
1975 trong Dinh Độc Lập, nói trong Diễn
văn từ chức, theo Pierre Darcourt trong VIETNAM, QU’AS TU FAIT DE TES FILS?, dịch giả: Dương Hiếu
Nghĩa:
“… Liên quan đến thảm trạng quân sự … ông
Thiệu chỉ rõ: chính Hoa Kỳ là kẻ phải chịu trách nhiệm chính trong vấn đề
nầy:
- Tôi đã nói với người Mỹ là: “các ông
muốn tôi làm những gì mà quân đội của các ông với 300 tỷ Mỹ kim, đã không làm
được trong sáu năm”.
- Tôi đã nói với họ là: “Các ông muốn
rút ra khỏi cuộc chiến tranh ở Việt Nam trong danh dự và bây giờ các
ông đòi hỏi chúng tôi phải làm những chuyện vô lý và không thể làm được. Điều
hành một cuộc chiến với viện trợ quân sự bị cắt xén thì có khác nào mấy ông
trao cho tôi 3 Mỹ kim mỗi ngày mà bảo chúng tôi phải sống như một du khách
hạng sang”.
Một lãnh
tụ của một quốc gia sao lại nói “chính
Hoa Kỳ là kẻ phải chịu trách nhiệm” về công việc của nước mình, phải
chăng ông thú nhận chính Mỹ mới là chủ nước mình, còn ông chỉ là kẻ đánh
thuê?
Trong: Nguyễn
Văn Thiệu, với lòng hận thù ngút trời, ông ta từng nói: “Đối với Cộng sản Việt Nam không có hội
đàm/ thương thảo, mà chỉ có đem bom ném lên đầu chúng nó!”, nhưng ông
ta lại: “Mỹ còn viện trợ, thì
chúng tôi còn chống cộng”; rồi “Nếu
Hoa Kỳ mà không viện trợ cho chúng tôi nữa thì không phải là một ngày, một
tháng hay một năm mà chỉ sau ba giờ, chúng tôi sẽ rời khỏi Dinh Độc Lập!”.
Thật tức
cười khi một ông tổng thống lại chiến đấu chỉ vì tiền viện trợ? Tướng Cao
Văn Viên, trong một cuộc phỏng vấn lúc cuối đời, đã có một số nhận
xét về Nguyễn Văn Thiệu cũng như so sánh giữa Nguyễn Văn Thiệu và Ngô
Đình Diệm:
"Mỗi người độc tài theo cách
riêng. Tổng thống Diệm cai trị nước như một quan lại của thời quân chủ, ông
bẩm sinh chống cộng, tự ban cho mình 'thiên mạng' cứu nước… Còn ông Thiệu thì
theo đường lối 'độc tài trong dân chủ'… Bàn tay sắt trong đôi găng nhung”.
Henry Kissinger trong
hồi ký của mình đã cho rằng, Nguyễn Văn Thiệu đã điều hành quốc sự theo một
kiểu "tàn bạo", "xấc
láo", "ích kỷ, độc ác" với những "thủ đoạn gần như điên cuồng". Ông ta cũng tiết lộ
rằng, khi nói về việc Nguyễn Văn Thiệu ngăn cản Mỹ ký hiệp định Paris, Tổng thống Nixon
đã giận dữ thốt lên: "Ông sẽ hiểu
thế nào là sự tàn bạo nếu tên đểu giả đó không chịu chấp thuận. Ông hãy tin
lời tôi"!
Như vậy là quá rõ. Cái chuyện chính nghĩa với cả phi nghĩa nên xếp lại, cái
cần nhất là nhìn đúng thực trạng hiện tại của đất nước, đưa ra những giải
pháp phù hợp, để thúc đẩy sự phát triển. Chứ còn mãi ôm hận, muốn làm cách
mạng thay đổi chế độ thì thật là ảo tưởng viển vông, bởi với hơn nửa triệu
quân Mỹ cùng với núi tiền của đổ vào còn không làm được gì, thì thử hỏi các
vị chống chế độ bây giờ làm được gì? Đến như ông Phó tổng thống Nguyễn Cao
Kỳ, người chống cộng khét tiếng nhất, người lính Ngụy cuối cùng rút chạy khỏi
SG sau những cố gắng phản công tuyệt vọng, cũng đã phải thừa nhận những thành
quả đã đạt được ở trong nước và thấy, những người Việt hải ngoại cần phải xóa
bỏ hận thù, cùng nhau dựng xây đất nước. Vậy mà đến nay, sau gần 40 năm hòa
bình, trong nước hoàn toàn chẳng còn khái niệm “Mỹ” với chả “Ngụy”, vậy mà vô
mấy trang chống cộng dạng như Đàn
Chim Việt, tôi thật e ngại khi thấy mối thù hận vẫn còn cao
chất ngất, và có lẽ không bao giờ hóa giải được, bởi không phải do vô học mà
sự lầm lạc đó lại được xác tín một cách rất trí thức. Đó chính là cái nghịch
lý vẫn thường có trong cuộc đời này, nó chính là sự ngu dốt của những kẻ trí thức. Vì là trí thức nên họ có lý
lẽ, nhưng tri thức của họ lại chưa đủ, cộng với sự thành kiến làm méo
mó cách nhìn, nên họ sẽ mãi mãi lầm đường lạc lối!
Tất nhiên với những
người thuộc chế độ cũ ta cũng phải thông cảm, vì họ vẫn còn “cay” cái chuyện Việt Nam Cộng hòa
“mất nước”. Đó cũng là lẽ thường tình bởi họ cũng chỉ là những người bình
thường, không có được cái tâm phá chấp của nhà Phật, ai cũng có cái sĩ diện,
nhất là lại mang nặng cái cốt cách tiểu nông phong kiến nữa. Sau giải phóng
tôi đã không bao giờ coi họ là địch, vì quả thật, nếu như vậy với tôi, chính
vợ con tôi cũng sẽ thành kẻ địch!
Tôi chỉ
khinh thường những người thuộc “phe ta”, vì chỉ muốn “hơn người” đã
tuyên bố và có những hành động ngược ngạo, như Dương Thu Hương lại “khóc như cha chết” vì thấy đội quân
chiến thắng của mình “là một đội quân
man rợ”; như Nguyễn Huy Thiệp, một ông giáo cấp III môn lịch sử, một
nhà văn lại: “nôn mửa vào cuộc chiến
tranh giải phóng dân tộc”; còn ông Nguyên Ngọc, một người khi trong ban
lãnh đạo của Hội Nhà văn, lại cố công lăng xê cuốn Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh, cuốn sách mà GS. Trần Thanh
Đạm đã viết là cuốn: “xuyên tạc tính
chất chính nghĩa của cuộc chiến từ phía Việt Nam”; ông đã phải ta thán
trước những sự tôn vinh cuốn sách đó: “Thế
là thiện ác đảo điên, chính tà lẫn lộn, vinh nhục bất phân”; còn Huệ Chi,
chủ trang Bauxitevn.net, từng tuyên bố thành quả cách
mạng, chỉ là một “sự cả tin”, là “mơ ước nông nổi” v.v…
Trong một bài nhớ về ngày 30-4, tôi
đã viết:
“Nhìn cảnh máu lửa trên ti vi, người Việt
giết người Việt mình, tôi thấy cuộc sống loài người sao có những điều vô lý
thế, và nhận thấy chính lòng tham của những kẻ mạnh là cội nguồn sâu xa nhất.
Chúng ta đã trở thành nạn nhân của cái lòng tham của những nước lớn, rồi dẫn
đến chuyện chúng ta lại trở thành nạn nhân của chính chúng ta bởi những cố
chấp, những thù hận; bởi sự nô lệ cho những ý thức xơ cứng, mòn cũ, phản tiến
bộ và phản nhân văn.
Vật lý lý thuyết đã chỉ ra, bản chất
sâu xa của vật chất mang tính nhị nguyên sóng - hạt; Đức Thích Ca, Lão Tử, dù
chỉ tương đồng ở vỏ ngôn ngữ, cũng đã cho vạn vật và mọi hiện tượng đều được
tạo nên và tồn tại bởi hai cái ngược nhau: sắc và không; vô và hữu.
Nếu các nhà chính trị hiểu điều này,
hiểu xã hội loài người chẳng có gì hoàn toàn đúng, chẳng có gì hoàn toàn sai,
chắc thế giới đã không có những cuộc chiến ý thức hệ. Nếu nước Mỹ cũng hiểu
điều này, có lẽ sẽ không có cuộc chiến Việt - Mỹ cay đắng, làm đến 3 triệu
người Việt Nam và gần 60000 người Mỹ thiệt mạng, và lòng người đến nay vẫn
còn ly tán. Và cựu Tổng thống Mỹ Bill Clinton
cũng không phải "thú nhận" với Chủ tịch Nguyễn Minh Triết rằng:
“Sáu mươi năm trước, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Tổng thống Roosevelt
đã muốn hai nước Việt - Mỹ thật sự là bạn. Quá trình này đã có những bước gập
ghềnh. Tuy nhiên, tôi vô cùng hạnh phúc chứng kiến quan hệ tốt đẹp giữa hai
nước mà đáng lẽ phải có từ cách đây 60 năm”.
TPHCM
27-4-2012
ĐÔNG LA
|