ĐÔNG LA
TRƯỚC BIỂN
CẢ CỦA TRI THỨC
VÀ CHỮ
NGHĨA
(Đọc “Chân dung và đối thoại”,
Trần Đăng Khoa, nxb Thanh niên, 1998 )
Tôi đã viết vài
dòng góp ý chân tình sau khi đọc lướt
cuốn “Chân dung và đối thoại” của Trần Đăng Khoa. Nếu Khoa thực sự hiểu
được vấn đề cũng như dư luận đánh giá đúng cuốn sách thì tôi không đọc lại và
cũng không viết nữa làm gì. Nhưng trước việc cuốn sách thực sự đã trở thành một
hiện tượng văn học 1998, còn Trần Đăng Khoa thì tự hào là đã phát minh
ra được một kiểu phê bình mới; rồi qua một phóng sự trên vô tuyến truyền
hình gần đây, thì có khá nhiều độc giả khen ngợi, có người còn coi Trần Đăng
Khoa, từ một thần đồng, nay đã trở thành một nhà bác học rồi!
Tôi
thật buồn vì tiếc cho Trần Đăng Khoa. Lẽ ra Khoa cứ trong sáng một cách thực sự
trong sáng, hồn nhiên một cách thực sự hồn nhiên, Khoa không đóng vai một ông
trùm để phán xét toàn bộ nền văn học Việt Nam bằng cái đầu óc bé thơ nhưng lại già nua của mình;
lẽ ra anh cũng không nên viết phê bình kiểu như vậy; thì tình cảm của mọi người
giành cho Khoa sẽ vẫn trọn vẹn.Tôi buồn vì biết số người khen xuýt xoa trên kia
chỉ là những độc giả, mà họ thích thú cũng chỉ vì tò mò, vì cái giọng điệu tếu
táo mà Khoa đã sơn phết vào tác phẩm mà thôi; còn cái số ít người phủ nhận lại toàn là những
nhà phê bình rất có nghề, rất có uy tín; hơn nữa họ lại nhận xét rất chân tình,
chứ không giống những nhà phê bình trẻ, mà ít nhiều thường cực đoan.
Nhà
phê bình Lại Nguyên Ân nhận xét rằng, hiện ở ta, cả những nhà sáng tác lẫn độc giả vẫn thường không thích nổi những tác
phẩm nghiên cứu phê bình giàu tính lý thuyết, giàu tính khoa học-chính là những
“tác phẩm công cụ”-mà thường chỉ thích những tác phẩm phê bình của những
người sáng tác, thường có những dánh giá văn chương đầy ấn tượng bằng chính
ngôn ngữ văn chương, nhưng lại hay sai lầm bởi chỉ bằng cảm tính, trực giác và
ít căn cứ, không chứng minh. Tôi cũng vừa sáng tác vừa viết phê bình, nhưng
phải thừa nhận đây là một sự đánh giá rất đúng. Lâu nay người ta thường nói dư
luận là quan tòa đánh giá công tâm nhất mọi thứ trên đời, nhưng riêng ở lĩnh
vực tri thức cao sâu thường không hẳn
vậy. Những bài toán lớn về tri thức thúc đẩy sự phát triển nền văn minh nhân
loại thực ra chỉ được giải bởi một số cá nhân đếm trên đầu ngón tay, và những
người hiểu được tường tận ý nghĩa và giá trị của chúng, cũng chỉ là một số vô cùng nhỏ trong số hàng tỷ
người trên trái đất này. Chính vậy mới sinh ra cái quy luật ngược đời rằng, có
khi người có tài chưa chắc nổi tiếng và người nổi tiếng lại chưa chắc có tài;
và, những tác phẩm có giá trị có khi lại bị dư luận thờ ơ và tác phẩm dạng mua vui thì lại được
đón nhận nồng nhiệt. Liệu cuốn của Trần Đăng Khoa được chào đón như vậy có phải
do đã đưa ra được một phương pháp phê bình mới
hiệu quả hơn những phương pháp hiện có hay không? Và chân dung nền Văn học Việt Nam đang lờ mờ trong quầng
sáng tù mù của nền phê bình cũ bỗng chốc được soi sáng bằng cây bút thần của
Trần Đăng Khoa hay không? Một cây bút hoàn toàn tự tin trước những vấn đề rất
lớn, mà có đến cả viện văn học giải quyết được thỏa đáng cũng còn khó khăn.
Trần
Đăng Khoa viết: “Tôi viết bằng chính kiến của tôi. Tôi hoàn toàn chịu trách
nhiệm về những gì mình nói. Tôi không làm cái loa, phát ngôn cho ai” (tr. 190).
Tất nhiên viết phê bình phải có chính kiến, toàn nhai lại ý kiến người khác thì
viết làm gì cho mất công. Có điều phải biết rằng, trí tuệ của cá nhân trước
biển cả tri thức thường rất hạn hẹp và nông cạn. Nên mỗi khi đánh giá một điều
gì hệ trọng, người ta thường phải dựa vào cả nền tảng tri thức, từ sự so sánh
đối chiếu, chứ không chỉ xuất phát từ ý kiến cảm tính, chủ quan. Người ta
thường phải viện dẫn đến ông ôp, ông ép là như vậy.Trong khoa học, đến
như con mắt thần của Newton
cũng chỉ mới nhận ra những quy luật cơ học trong vùng khả kiến. Phải đến thời Einstein,
Rutherfor, Bohr, Heisenberg,
Schrodinger, Hawking... mới nhìn xa hơn, sâu hơn vào vũ trụ và lòng vật
chất bí ẩn, mà đến nay vẫn còn mâu thuẫn nhau, còn nhiều điều chưa nhìn thấy,
và cũng không biết đến bao giờ mới thấy hết và lý giải hết được. Vậy mà trong
lĩnh vực phê bình văn học, không chỉ mang tính khoa học mà còn phụ thuộc cả vào
tâm lý, tình cảm yêu ghét, mà Trần Đăng Khoa lại không cần đến ai cả, không cần
đến lý luận, thường chê bai người khác khi họ dùng lý luận và sự phân tích chi tiết
để xác định những thành tố tạo nên sức cuốn hút và giá trị của tác phẩm. Khoa
viết : “Đã không ít nhà phê bình nghiên cứu mang lý trí ra làm con dao cùn
mổ xẻ những con chữ ngơ ngác này. Có người còn viện đến cả thi pháp học để cố
hiểu cho bằng được bài thơ, lấy thi pháp làm chìa khóa mở cánh cửa thực dụng,
đi vào cõi mù mờ tâm linh này...”(tr. 58). Đây là một cách nghĩ duy tâm và
thần bí hóa. Bởi những con chữ chả có gì là ngơ ngác cả. Con chữ chỉ là ký hiệu
thể hiện tình cảm tâm trạng, mà tình cảm tâm trạng của con người trong tình
yêu, trong chia ly gặp gỡ, trong không gian thơ mộng... tưởng như phải quá thân
thuộc chứ, bởi có ai trong cuộc đời này mà không từng trải qua, vậy có gì mà “mù
mờ tâm linh”?! Ngày nay người ta còn đủ sức khám phá cách thức bộ não con
người “sản xuất” ra cái tâm linh này nữa cơ, vài câu thơ thì ăn thua gì! Tư
tưởng không cần lý luận của Khoa còn thể hiện ở nhiều câu nói khác, cách nói
khác, khi Khoa chê người khác, như : “Rồng rắn loanh quanh trong quầng lý sự
tù mù” (tr. 246). “Có nhà phê
bình nghiên cứu viết khá dài dòng về bộ Cửa biển với bao nhiêu là lý luận rối
rắm (tr. 108). Về những bài viết mà tầm tri thức liên quan đến từ tư tưởng,
triết học, thi pháp, mỹ học đến ngôn ngữ học... những điều cốt yếu mà nền văn
học hiện đại cần phải lấy làm nền tảng, anh lại phán là vặt vãnh: “Nhiều tòa
báo yêu cầu tôi trả lời … Không phải ngại va chạm. Tôi thấy cuộc tranh cãi ấy (về
giải thưởng HNV và thơ hiện đại) vặt vãnh quá”(tr. 191). Khoa cho những
cuộc tranh luận về đổi mới thơ là “Cãi vã ầm ĩ” (tr. 194). Từ việc không
cần lý luận như vậy, Trần Đăng Khoa cũng tự đánh giá mình: “Tôi là người
ngoại đạo (về mặt lý luận, tranh luận)” (tr. 192); “Tôi chẳng bao giờ
nghĩ mình là nhà lý luận. Tôi viết bình luận … là do yêu cầu tòa báo. Đây là
phần làm thêm” (tr. 197).
Thật đáng tiếc, với quan niệm và tình trạng của Khoa về lý luận như
trên, lẽ ra “do yêu cầu tòa báo” anh cứ phỏng vấn rồi ghi chép cho đầy
đủ, và trong “việc làm thêm” ấy, anh đừng đóng vai một ông trùm phán xét tất cả thì có phải hay không ?
Thứ
nhất về những tên tuổi mà Khoa đánh giá. Tôi tán thành quan điểm không nên thần
thánh hóa những tên tuổi không nên dựng họ thành những đỉnh cao vô tận một cách siêu hình, rồi đánh
giá thấp những cái mới hôm nay, cho không ai có thể vượt qua được. Với cách
nhìn biện chứng, cuộc sống luôn biến đổi đi lên, mọi giá trị cũng vậy, không có
gì là tất cả, và cũng không có gì là hoàn thiện cả. Có điều, ta có thể tìm ra
những điểm yếu, những cái không còn phù hợp, những giới hạn,... của những người
đi trước, để định hướng cho sự phát triển hôm nay, nhưng không ai được phép phủ
nhận xổ toẹt; không được phép đánh giá tùy tiện theo cảm tính, không chứng
minh, làm sai lệch đối tượng.
Thật
tiếc, trong “Chân dung và đối thoại”, dù Khoa có nói không làm phê bình
thì cuốn sách của Khoa vẫn là cuốn sách phê bình, bởi nhiều tên tuổi hàng đầu,
những tác phẩm được giải thưởng Hội Nhà Văn, những cuộc thi văn chương quy mô
toàn quốc, đã được anh mang ra đánh giá, bình phẩm.
Đọc
kỹ và ngẫm nghĩ một chút, ta mới thấy bao trùm lên toàn bộ cuốn sách là cái ý
Khoa muốn chê hầu hết mọi người. Nhưng vốn từng là một thần đồng, quen với tất
cả, nên Khoa ngại, nhưng khổ nỗi không chê thì không chịu được, nên Khoa mới
phải đưa ra cái phương pháp phê bình chưa từng có bao giờ mà tôi tạm gọi
là “phương pháp vòng vèo”. Đó là việc mượn người nọ chê người kia thay
mình, mượn ma chê người thay mình, và đúng như nhà phê bình Vương Trí Nhàn nhận
xét, trước khi Khoa chê ai, Khoa thường khen hết cỡ thì thôi. Đặc điểm chung
của lối phê bình này là: không cần đúng mực, không cần chính xác, phán xét
rất tùy tiện. Khoa thường đẩy sự khen chê về tận hai đầu mút của sự cực
đoan, khen thì tâng bốc tận mây xanh, chê thì xổ toẹt tất cả. Với Khoa
thì được anh khen hay chê đều rất hãi. Với nhà phê bình tài năng thì ngược lại,
dù bị phê phán, tác giả vẫn chấp nhận, bởi sự phân tích có lý sẽ giúp cho tác
giả sửa chữa và phát triển tốt hơn.
Với
nhà thơ Tố Hữu, Khoa khen thơ ông là “kiệt tác”, là phần lớn sẽ “bất
tử”, nhưng lại là kiệt tác còn “lẫn mấy câu vè” (kiệt tác là kiệt
cùng hay, một bài thơ có bao nhiêu câu đâu mà lẫn đến mấy câu vè, sao còn có
thể là một kiệt tác?), bất tử nhưng lại phải
“nhờ lịch sử” (có phải do ít giá trị nghệ thuật nên phải ăn theo
lịch sử không?)”. Với Nam Cao, Khoa khen: “Có ai vượt qua ông ấy. Đấy là một
thiên tài, cũng là niềm tự hào của cả dân tộc ta ở thế kỷ này … xét về tài …
cũng chẳng thua gì ông Sêkhôp, ông Lỗ Tấn). Nhưng rồi anh chê :“ Nhưng
Lỗ Tấn và Sê khôp quan tâm đến nỗi đau ở cõi tinh thần, còn Nam Cao lại phải để tâm trí nhiều
đến cái bụng. Đọc ông ấy, trang nào cũng thấy đói. Mà văn học chỉ luẩn quẩn
xung quanh miếng ăn cũng khó mà lớn được” (223). Văn học cũng như mọi lĩnh
vực sáng tạo khác, trình độ nước ta còn hạn chế so với thế giới, ta không nên
so sánh tùy tiện. Còn phần Khoa chê Nam Cao thì đầy sai lầm và mâu thuẫn. Đầu
đoạn văn anh cho ông là “thiên tài”, là “niềm tự hào” của dân
tộc, cuối đoạn lại chê “luẩn quẩn” rồi “khó mà lớn”. Sao đã “thiên
tài” còn không “lớn”? Sao nước ta lại đi tự hào về thứ văn chương
không vượt qua khỏi cái bụng? Tại sao có chỗ Khoa viết, có khi một chi tiết nhỏ
thôi có thể làm nên một nhà văn lớn (chuyện con cào cào bay táp vào mặt
khi bàn về Nguyễn Khắc Trường), sao Nam Cao viết về nỗi thống khổ của con người,
trước nỗi thiếu thốn cái thấp nhất, cái cơ bản nhất để tồn tại, là miếng ăn,
sao lại không lớn? Sao lại không tinh
thần? Khoa nói Nguyễn Du chỉ nghĩ đến tinh thần vì trong tác phẩm ông không cho
nàng Kiều ăn một miếng nào, nhưng tác
phẩm của ông lại kể chuyện một cô Kiều “hành nghề” ở chốn lầu xanh, nếu
cũng theo cách đánh giá Nam Cao của Khoa, thì
Khoa sẽ nói Nguyễn Du không vượt qua được cái gì?
Một
loạt các tên tuổi khác cũng được Khoa nhìn với con mắt như vậy. Với Nguyễn
Tuân, Khoa viết ông là : “nhà văn lớn”, có thể “đúc tượng”, là “nhà
văn vĩ đại của thế kỷ XX”, là “Bậc thầy của nhiều bậc thầy” (tr.
110) ,...nhưng lại chê : “ông cụ tả một cách nhấm nháp với vẻ đầy khoái
cảm...Đưa việc chém người lên thành nghệ thuật...Nhà văn lớn ai làm thế”
(tr. 113-114). Với Nguyễn Đình Thi :“Vỡ bờ như Chiến tranh hòa bình”,
nhưng “ tập I có khá hơn. Tập II sơ lược...nó xốp và nhiều trang minh họa quá lộ liễu”. Khoa khen
thơ Nguyễn Đình Thi “hay” nhưng lại ở : “đằng sau những con chữ bạc
phếch”(tr. 206). Về Nguyên Hồng : “Bỉ vỏ hay mà không lớn, Cửa biển
lớn mà không hay”. Đến Nguyễn Khải, Khoa cho là : “một bậc thầy”
nhưng : “ Nguyễn Khải là một nhà văn thông tấn...Ở trường phái văn chương
thông tấn này, một mình ông một vị trí dộc tôn, không có ai so sánh được”
(tr. 122). Có lẽ không có người viết nào lại mong viết được như vậy. Nếu văn Nguyễn Khải đúng vậy
thì phải chịu, có điều Khoa đánh giá thế có đúng không, khi văn ông thường đậm
chất suy tư .
Trong
hàng trưởng lão, riêng Chế Lan Viên được Khoa chê một cách tinh vi nhất. Thứ
nhất là việc ông không được Khoa “để mắt” tới. Một cuốn sách nói nhiều về những
bậc tiền bối, vẽ nên những nét chính diện mạo văn học Việt Nam mà lại không có mặt Chế Lan
Viên thì cũng là cách làm tùy tiện.
Thích ai, gần ai thì nói, không thì thôi. Việc “lờ đi” như vậy, theo lời Xuân
Diệu dậy Khoa, cũng là một cách chê: “Cái gì hay thì khen. Không hay thì im
lặng, lờ đi. Im lặng cũng là một lời chê đấy” (tr. 34). Tuy không được Khoa
viết riêng một chương, nhưng trong bài viết về Xuân Diệu, Khoa cũng có nhắc đến
Chế Lan Viên một câu. Và chỉ qua một câu đó thôi, Khoa cũng đã thể hiện được
quan điểm của mình về Chế lan Viên: “Trông ông không có gì là to lớn, bệ vệ.
Cũng không có dáng vẻ lơ mơ thi sĩ-một gương mặt rất hoạt. Cặp mắt sắc, nhanh
nhẹn và hết sức thông minh, nhưng là cái thông minh của một nhà thông thái hơn
là một thi sĩ tài ba” (tr. 38). Tại
sao một đứa trẻ con mấy tuổi đầu mà lại thấy một người đàn ông tầm vóc trung
bình như Chế Lan Viên là “không có gì to lớn”, sao lại phân biệt được sự
thông minh của “nhà thông thái” với “thi sĩ tài ba”? Không,đây
không phải là cảm nhận của một đứa trẻ con mà là một nhận xét của Trần Đăng
Khoa hôm nay, về sự nghiệp của Chế Lan Viên. Và như thế cũng thật sai lầm. Dù
trong số lượng khổng lồ, thơ ông cũng có nhiều bài không xuất sắc, nhưng trong
số ít người được coi là “lớn” của nền văn học Việt Nam, tôi thấy Chế Lan Viên
là xứng đáng nhất. Chính phẩm chất trí tuệ và bút pháp của thơ ông, chứ không
phải của ai khác, gần gũi với thơ của những nhà thơ trẻ hôm nay hơn cả, và sẽ
còn ảnh hưởng dài lâu đến những thế hệ thi sĩ mai sau.
Riêng với Xuân Diệu, Khoa viết với tất
cả tình yêu của mình, mang nghĩa hàm ơn, đôi chỗ thần thánh hóa, coi tư duy của
ông là chuẩn mực của chân lý, mặc dù có đôi chỗ anh cũng chê, nhưng chê để
khen, và chê những điều tất nhiên ai cũng có. Xuân Diệu đã có đóng góp rất lớn,
ông đã mất, lẽ ra nên để ông yên giấc ở cõi ngàn thu, nhưng những quan niệm về
thơ, những câu thơ nổi tiếng của ông có liên quan đến sự phát triển thơ ca hôm
nay, ta không thể không bàn luận một cách khách quan và khoa học. Bài viết
trước tôi đã nói phần thơ cách mạng của ông có nhiều bài quá gần lời nói thường
do quan niệm “Chân chân chân thật thật thật” của ông. Nghe nói Khoa cũng
không đồng tình việc tôi phân tích và đề nghị thay chữ “đi” bằng chữ “trôi”
trong hai câu : “Trái đất ba phần tư nước mắt. Đi như giọt lệ giữa không
trung”. Tôi vẫn bảo lưu ý kiến đó, và muốn phân tích thêm đôi điều. Động từ
đi luôn gắn với sự chuyển động của người, của sinh vật hoặc máy móc
có điều khiển: Đi bằng chân, bằng bánh xe bằng cánh quạt...Trái đất hình
cầu, chuyển động bằng lực vô hình của tự nhiên, nó như trôi vô định
trong không trung. Trong hai câu trên, trái đất cũng chưa được nhân cách hóa,
chỉ được ví với một giọt nước mắt, tượng trưng cho nỗi buồn của
chúng sinh. Vậy sao trái đất có thể đi được? Cái mà trái đất được ví là giọt
nước mắt cũng làm sao mà đi được? Bên cạnh sự tương hợp với thực tại, chữ “trôi”
cũng phù hợp hơn chữ “đi” trong cái khung cảnh buồn mà câu thơ muốn gợi
nên. Có thể rồi Khoa sẽ lại chê tôi là sao lại dùng con dao cùn phân tích mổ xẻ
những con chữ rưng rưng, vĩ đại kia, nhưng như tôi đã nói, quan điểm đó của
Khoa trong việc thẩm định tác phẩm là quan điểm duy tâm siêu hình. Bởi cái hay
của một tác phẩm phải được bắt nguồn từ những yếu tố xác định, từ những ý
tưởng, những hình ảnh, từ sự sáng tạo ngôn từ, từ cấu trúc bài thơ,... chứ
không phải từ những cái vô hình, những cảm xúc bốc đồng tùy tiện. Nhà phê bình
phải khác độc giả thường chính ở chỗ đó, không những thấy được cái hay mà còn
phải trả lời được : Tại sao hay và hay đến đâu? Chuyện Khoa kể Xuân Diệu
chữa thơ của Khoa : “Mờ mờ ông bụt ngồi nghiêm. Sợ gì, ông vẫn ngồi
yên lưng đền” thành “...Nghĩ gì ông vẫn ngồi yên lưng đền”.
Khoa tấm tắc khen ông là “tinh tường”: “chỉ thay một chữ “nghĩ”, ông
Bụt đã hóa thành cơ thể sống, đã thành sự sống”(tr. 53). Theo tôi, Xuân Diệu chữa hai câu này đã
làm hỏng thơ Trần Đăng Khoa. Đúng là ông đã làm thơ Khoa hay hơn thật, nhưng
lại biến nó thành đồ giả, bởi nó đã mất đi sự hồn nhiên của trẻ thơ, diễn tả
không đúng tâm trạng của trẻ thơ. Trẻ con trông thấy ông Bụt đúng là “sợ”
thật, còn thấy ông Bụt “nghĩ” là cách nhìn suy tư, cách nhìn trải đời
của người lớn. Nếu nói thơ thiếu nhi của Khoa còn điều không hay thì có lẽ
chính là cái điều “quá hay”, cái điều“quá hoàn chỉnh” ấy. Nhưng
có một nghịch lý, chỉ với những cái “quá” như vậy, Khoa mới trở thành thần
đồng, với bao công lao của sự góp ý, sự biên tập đóng góp vào đấy. Nhưng
theo tôi, Khoa cũng chỉ mới thần đồng ở chỗ tả cảnh, ví von hoàn chỉnh, chứ
không có tư tưởng lớn. Có một cô bé nước ngoài nào đó, mà tôi không nhớ cả tên
lẫn thơ, chỉ đại khái nhớ cô viết về chiến tranh như sau : “Thật may mà trái
đất hình tròn. Bởi nếu là mặt phẳng thì không biết em sẽ núp vào đâu ?”! Một tài năng thực sự phải có ý tưởng lớn như vậy.
Lớp
nhà văn, nhà thơ thế hệ tiếp sau, nếu đọc lướt tưởng Khoa ưu ái một số người,
nhưng thực chất không phải vậy, Khoa cũng chê tuốt, dù có khéo hơn, bởi họ đều
ở sát sạt bên Khoa, có khi ngày ngày còn
gặp mặt nhau, mà họ lại đều có cây bút trong tay cả, hơn nữa hiện họ còn có vị
trí chắc chắn hơn Khoa ở trên mọi phương diện.
Vẫn
với phương pháp phê bình “tâng bốc đi liền với xổ toẹt” như vậy, Khoa đã
đánh giá những bậc đàn anh của mình. Về Phạm Tiến Duật: “Đấy là một thiên
tài. Ông ấy còn là bậc thầy của E.Eptusencô … Đó là một nhà truyền giáo vĩ đại...”;
nhưng Khoa lại bảo Phạm Tiến Duật không tự tin, mà không một thiên tài nào lại
không tự tin, lại nghi ngờ tài năng của mình, sáng tác lại không dựa vào cơ sở
nào, viết ra cũng không biết mình hay
hay dở, Khoa viết Phạm Tiến Duật: “không tin...khi nào người ta bắt đầu nghi
ngờ...ông ấy mới thực sự tin”. Về Lê Lựu, Khoa đánh giá tác phẩm của anh
là: “Vàng ròng nguyên chất” (tr. 84); “Bức tranh nông thôn đặc sắc.
Có nhiều trang đạt tiêu chuẩn Nam
Cao” ( tr. 87); nhưng văn anh lại không có văn: “Câu văn lùa
thùa, không sáng sủa” (tr. 89); tác phẩm của anh chỉ cuốn hút bởi “Người
ta có thể quên văn mà nhớ chuyện đời” (Tr. 89). Theo tôi, văn chương mà
không có văn thì viết làm quái gì, bởi chỉ mấy cái chuyện đời thì nghe
mấy bà nhà quê hay thóc mách, tọc mạch, còn có nhiều chuyện thú vị hơn Lê Lựu
nhiều. Một tác phẩm xuất sắc, vàng ròng trước hết phải có văn,
còn lấy tiêu chuẩn nhiều chuyện đời, tiêu chuẩn nội dung, và mức độ phản ánh
hiện thực thì văn không thể so với báo chí và sử được. Khoa còn nhấn mạnh sự
chê bai Lê Lựu khi bàn về cuốn “Chuyện làng Cuội”: “Những điểm yếu
của Thời xa vắng lại được bộc lộ hết mình … Ấy là lối viết tự nhiên chủ nghĩa,
nhiều chỗ tuột khỏi văn chương, vượt sang phạm trù mất vệ sinh, khiến cho người
đọc cảm thấy ghê sợ vì nó cứ bẩn bẩn bẩn thế nào” (tr. 95); rồi : “Văn
Lê Lựu không thế. Nó là búi dây dợ luộm cuộm” (tr. 95). Quả thực, tôi chưa
được đọc nhiều văn anh Lê Lựu, nhưng nếu đúng như Khoa đánh giá thì Lê Lựu được
như hôm nay, chắc anh phải có những cái tài ngoài văn chương, mới biến văn
chương không có văn của mình đạt được cái này cái nọ nhiều như thế; vì
tôi thấy nhiều trang văn trên VNQĐ, VN của những tên tuổi còn chưa có tên tuổi
gì, cũng không đến nỗi tồi tệ như văn của Lê Lựu. Với Nguyễn Khắc Trường, Khoa
viết: “Hay nhất Việt Nam.
Vừa trước mắt vừa lâu dài”; rồi: “ Văn Khắc trường là thứ văn đẹp mà
chắc”, là “thái cực” với văn Nguyễn Khải. Nhưng “Kết cấu là một
phương diện quan trọng vào bậc nhất của tiểu thuyết …Khắc Trường lại vụng. Kết
cấu cuốn sách hỏng. Bởi thế mà cuốn tiểu thuyết lỏng lẻo” ( tr. 125). Có
cái quan trọng bậc nhất mà hỏng thì còn văn chương gì nữa! Khoa còn chê Khắc
Trường không viết được nữa, có mỗi chi tiết xương sống của cuốn tiểu thuyết là chuyện
đào mả, Khoa lại cho là vô lý, đến ma cũng chả tin được: “Con
người … làm sao có khả năng thế … trả thù đến mức đào cả mả bố nhau lên thì
khiếp thật” (tr. 123). Về Nguyễn Đức Mậu Khoa bình phẩm còn thú vị hơn
nhiều. Tuy văn anh được Khoa đánh giá là thua Lê Lựu vì chưa có những trang “đạt
tiêu chuẩn Nam Cao” như Lê Lựu, nhưng Khoa cũng coi anh : “Nguyễn Đức
Mậu là một thi sĩ, và hơn thế, một thi sĩ có tài” (tr. 221). Nhưng khổ nỗi
Khoa chỉ coi anh là thi sĩ có tài ở cấp độ quần chúng làm thơ thôi, bởi Khoa
viết: “Ở cái nhà số 4 Lý Nam
Đế của ta, có rất nhiều người tài. Đấy là nhà thơ khoác áo lính. Còn Nguyễn Đức
Mậu là người lính khoác áo thi sĩ” (tr. 219). Thơ Nguyễn Đức Mậu Khoa cho
là thơ quần chúng, còn văn của anh thì Khoa lại cho là thơ, là chưa thành văn :
“Văn của một thi sĩ...Thỉnh thoảng anh lại giật mình, đánh rơi ra cả một
mảng thơ”(tr. 221).Thật là những nhận xét
nhùng nhằng tùy tiện. Tôi phải thêm ra chỗ này là, không ai cấm văn có
chất thơ, không ai cấm văn có sáng tạo ngôn ngữ. Nếu văn xuôi có được điều này
sẽ lung linh hơn, tức có “văn” hơn.
Tôi nhớ mãi câu
văn của Phạm Thị Minh Thư trong “Có một đêm như thế” : “Làm sao mặt
trăng lại đỏ hở anh, cứ như một mặt trời được kéo ngược từ phía hoàng hôn trở
về”; Phan Thị Vàng Anh viết về cha mình : “Cha sợ những quán cà phê,
nhìn chúng như nhìn những nấm mồ chôn thì giờ”; Trần Nhã Thụy trong một
truyện cũng viết: “Gấp thêm một nếp
buồn”…
Nói
chung, trong phần đánh giá văn chương, dù theo cái phương pháp ngược đời, Khoa
cũng có những đánh giá đúng, có điều cái đúng mới ở cấp độ trực giác. Khi đặt trong tổng thể của kết cấu văn bản, với
sự tác động qua lại giữa các thành phần, các yếu tố với nhau, thì những điều tưởng
là đúng ấy lại sai toét, có khi sai lầm nghiêm trọng.
Một
điều cộm nên nữa là tính văn hóa của việc viết chân dung nhà văn. Trong “Chân
dung và đối thoại”, nhiều người thấy Khoa viết quá nhiều những chuyện ngoài
văn chương lẽ ra không nên viết. Có nhà văn có tiếng từng nói, những gì tinh
tuý nhà văn đã vắt kiệt, đã chiết hết ra cho trang sách rồi, còn đời thực chỉ
là cái bã thôi, nên đứng xa mà nhìn còn được, chứ ở gần thì chối lắm. Khoa thì
ngược lại, văn chương thì Khoa đứng thật xa mà nhìn, còn sinh hoạt đời thường
nhà văn thì lại nhìn quá gần. Một cách nhìn rị mọ, thiếu quảng khoát. Dù yêu
quý Xuân Diệu, nhưng qua những nét chân dung đặc tả, vô tình Khoa đã vẽ nên một
Xuân Diệu không được đẹp. Lê Lựu qua ngòi bút của Khoa hiện lên không chỉ gân guốc, sù sì mà nhếch nhác. Tất nhiên
Khoa cũng có tự bôi xấu mình trước, nhưng theo kiểu của những người vĩ đại tự
diễu mình, chứ không phải như viết về người khác. Liệu có một người cũng vẽ Khoa với những nét không văn hóa như
vậy, không biết Khoa có chịu nổi không ?
Một
điều nữa không thể chấp nhận được trong “Chân dung và đối thoại” là Khoa đã lạm
dụng sự tếu táo quá nhiều, viết trên giấy trắng mực đen, để xuất bản, phát hành
mà như nói chỗ không người. Có người nói Khoa đã đủ tài để có tật chưa? Khoa nói Nguyễn Tuân như “đứa trẻ cao tuổi”;
Khoa gọi Nam Cao là “ông ấy”, cả Nguyễn Du cũng được Khoa gọi là “ông
ấy”. Đại từ nhân xưng nước ta khác với nhiều nước vì nó có tính biểu cảm.
Cách gọi những người đã trở thành đấng, bậc, riêng Nguyễn Du có thể liệt
vào hàng Tiên Tổ, với giọng điệu ngang tàng, ngang hàng phải lứa, khách quan như nói về một người xa lạ, mới
quen, thì không thể chấp nhận được, không thể là tếu táo vui đùa nữa, mà đã là
một sự hỗn xược, xấc láo! Ta có quyền phân tích văn thơ tìm ra những giới hạn
của tiền nhân để định hướng cho sự phát triển hôm nay, nhưng xấc láo thì không
được phép.
Về
sự đổi mới thi ca, Khoa viết: “Thực tình, tôi rất mong có cuộc các mạng thi
ca ấy. Nhưng thực tế không có” (tr. 194). Theo tôi, trình độ của Khoa thể hiện
qua “Chân dung và đối thoại” như vậy thì Khoa không thể biết được thơ ca
hiện đại là như thế nào, chứ đừng nói gì đến chuyện định dạng, bình phẩm! Tôi
hoàn toàn có thể chứng minh được đã có một cuộc cách mạng thi ca ở nước ta và
đã có những thành tựu, có điều sự công bố còn khó khăn, mà có được công bố thì
cũng chưa được nhận dạng và được định giá thấu đáo, đúng đắn. Tôi đã đang viết
một bài chi tiết về điều này.
Về
văn xuôi, Khoa coi Nam Cao là cao nhất, là “cận trên”, là tiêu chuẩn để
ví người khác, nhưng Khoa lại cho văn ông là văn chương chưa với tới cõi
tinh thần, là chưa vượt khỏi cái
bụng, thì không biết Khoa coi văn xuôi
hôm nay như thế nào?
Tôi
vốn nghe tiếng Trần Đăng Khoa từ nhỏ, do ở quê người ta có nhắc đến. Nhưng tôi
rất ít đọc văn chương của Khoa. Khoa làm thơ bằng năng khiếu nên thường trực
quan, bắt vần, tả cảnh, ít tính trí tuệ, mà tôi thì lại thích thơ trí tuệ, đó
là thơ được hòa trộn bởi trí tưởng tượng và sự suy tư. Tôi cũng không thích
loại văn phê bình tếu táo kiểu “bác bác chú chú”, bởi giữa sự giải trí và sự
hiểu biết, tôi thích sự hiểu biết hơn. Nên mục tiêu tìm đọc của tôi thường là
những sách công cụ và những tác phẩm được giải Noben. Đọc các tác
phẩm ấy không phải để bắt chước rập
khuôn mà tìm
hiểu xem thơ ca
ở nơi làm
ra gần như toàn bộ những phát
minh làm nên nền văn minh hôm nay họ quan tâm đến cái gì, họ thể hiện những
điều ấy như thế nào, tại sao họ lại viết kiểu như thế, mình thích được điều gì,
còn không thích điều gì, tại sao mình lại không thích?... Để có cách nhìn khoa
học hơn về sự sáng tạo và khi viết thì cẩn thận hơn …
Trần
Đăng Khoa-chú bé thần đồng, đứa trẻ nông thôn làm thơ được nền văn học Việt Nam
cưng chiều nhất, sau ba mươi năm, con người anh đã lớn lên theo quy luật của
sinh học, nhưng hình như trí tuệ anh vẫn vậy. Khổ nỗi anh lại không biết điều
đó, nên trong đền đài nghệ thuật thiêng liêng, anh đã đóng vai hàng trưởng lão,
tự tin phán xét tất thảy, tự do vung vẩy tất thẩy ý nghĩ của mình, mà không
biết rằng, bùn đất dòng sông sông Kinh Thầy vẫn còn lấm láp rất nhiều trong đó,
đã văng ra làm lấm mặt nhiều pho tượng
đặt trên bục thờ.
Thật
đáng buồn khi tôi phải viết bài này vì tôi không muốn có một sự đổ vỡ. Mà không
viết thì không thể được.
Bình Thạnh
1-1999
(Tạp chí Sông
Hương, 3-1999)