Thứ Ba, 2 tháng 10, 2012

"ĐCS Liên Xô là chính đảng duy nhất làm giàu trong tang lễ của chính mình"

ĐÔNG LA
"ĐCS Liên Xô là chính đảng duy nhất làm giàu
trong tang lễ của chính mình"    

          Tổ quốc VN thân yêu của chúng ta, sau khi Bác Hồ đọc Tuyên ngôn Độc lập thành lập Nhà nước mới, từng trải qua những giai đoạn như “Ngàn cân treo sợi tóc”. Với một đội quân ban đầu chỉ có 34 chiến sỹ,  sau 2 năm, đã thực hiện Toàn quốc kháng chiến chống Pháp. Cả cơ quan đầu não nhà nước non trẻ đã phải di chuyển lên An toàn khu (ATK) Việt Bắc như cha ông ta ngày nào phải rời bỏ kinh thành trong kế “vườn không nhà trống”. Nhưng với tinh thần “quyết tử cho tổ quốc quyết sinh”, “chiến đấu đến giọt máu cuối cùng” vì Độc lập, Tự do của Tổ quốc, chúng ta đã đứng vững để rồi giành thắng lợi quyết định tại trận Điện Biên Phủ chấn động Địa cầu.
Rồi đến cuối 1972, Tổ quốc chúng ta lại đứng trước nguy cơ còn ngàn lần nguy cấp hơn, đó là cái mà Mỹ gọi là chiến dịch ném bom Linebacker, chính là cuộc tấn công của Mỹ muốn kết thúc chiến tranh theo ý mình hòng cứu vớt phần nào danh dự bằng máy bay B-52 ném bom rải thảm huỷ diệt xuống Hà Nội, Hải Phòng, Thái Nguyên và các mục tiêu khác liên tục trong 12 ngày đêm. Đây là cuộc ném bom dữ dội nhất trong lịch sử các cuộc chiến tranh. Nhưng quân và dân ta vẫn vững vàng đã đánh bại cuộc tập kích này, và lần thứ 2 đã làm nên một chiến thắng vĩ đại, trận "Điện Biên Phủ trên không".
Với một lịch sử oai hùng là vậy, tạo sao người đứng đầu ĐCS VN hôm nay, Đảng đã lãnh đạo đất nước làm nên những chiến thắng ấy, TBT Nguyễn Phú Trọng cũng lại tuyên bố chế độ ta đang đứng trước “nguy cơ tồn vong”. Mà kẻ địch không phải là giặc ngoại xâm mà chỉ là “một bộ phận không nhỏ” cán bộ thoái hóa, tạo nên “giai cấp mới” trong Đảng. Trước kẻ địch mạnh hơn nhiều lần về tiềm lực kinh tế cũng như quân sự, ta đã chiến thắng, lẽ nào ta sẽ lại chịu thua “bọn địch” mới này? 
Nhưng nếu đọc loạt bài Những bài học từ sự sụp đổ của Đảng CS Liên Xô trên báo Nhandan.online thì “sự lo xa” của TBT  Nguyễn Phú Trọng không phải không có cơ sở. Đất nước ta đã đổi mới, phát triển, đa số người dân đã có cuộc sống ấm no; trên trường quốc tế ta vẫn giữ được tình bạn truyền thống với các nước đồng thời quan hệ thân thiện với Mỹ và tất cả các nước trên thế giới, nghĩa là ta không có kẻ thù. Nhưng liệu ta có bằng được Liên Xô, cái đất nước từng là cường quốc về khoa học công nghệ, từng đầu tiên đưa được con người bay lên vũ trụ, chế tạo được bom nguyên tử, bom hạt nhân v.v… lại sụp đổ tan tành chỉ trong nháy mắt; để đến giờ, nước Nga dù có nhiều tỷ phú nhưng nhiều người nhất là vùng nông thôn lại bị bần cùng hóa, và còn lâu mới có được vị thế như Liên Xô thời cực thịnh.
Hôm nay nhân dịp Ban lãnh đạo Đảng họp bàn về “chỉnh đốn”, tôi muốn viết lại những nét chính trên cơ sở loạt bài Những bài học từ sự sụp đổ của Đảng CS Liên Xô từng in trên báo Nhandan.online. Những mong chúng là bài học thực sự cho đất nước ta trong những ngày hôm nay.
Lenin, tháng 4-1906, trong Đại hội lần thứ 4 Đảng Bolshevik đã đề nghị thông qua điều lệ: Mọi tổ chức của Đảng đều được xây dựng trên nguyên tắc tập trung dân chủ. Trong Đảng có quyền tự do thảo luận, phê bình và phát biểu ý kiến. Vấn đề góp ý, phê bình tự nhiên như việc con người hít thở khí trời vậy. Song song đó, Lenin còn nhấn mạnh tới tính tập trung trong Đảng với nguyên tắc “thiểu số phục tùng đa số”. Tuyệt đối không cho phép xuất hiện phe phái. Lenin nêu rõ: Nhất trí trong hành động, tự do trong thảo luận và phê bình, đây là kỷ luật mà một chính đảng tiên tiến cần phải có. Đặc biệt, sau khi Cách mạng Tháng Mười thắng lợi, các thế lực thù địch trong và ngoài nước sử dụng mọi thủ đoạn phá hoại đoàn kết trong Đảng, Lenin đã đặc biệt nhấn mạnh tính tập trung, đoàn kết, kỷ luật: “Giai cấp vô sản thực hiện tập trung vô điều kiện là một trong những điều kiện cơ bản để chiến thắng”. Điều này bảo đảm cho chính quyền Xô Viết non trẻ vượt qua được những thử thách gay gắt, song cũng để lại một hệ lụy là đời sống dân chủ trong Đảng bị suy yếu, dẫn đến khuynh hướng có tính chuyên quyền, độc đoán, đòi hỏi đặc quyền, quan liêu, xa rời quần chúng.
Trước tình hình đó, Lenin muốn xây dựng một cơ quan giám sát trong Đảng có tính độc lập, có uy tín cao để tăng cường và hoàn thiện chế độ giám sát trong Đảng, bảo đảm quán triệt chế độ tập trung dân chủ trong Đảng. Dưới sự chỉ đạo của Lenin, việc xây dựng cơ chế giám sát trong Đảng có sự phát triển rất lớn, Đảng thông qua Nghị quyết về Ủy ban Giám sát và Điều lệ Ủy ban Giám sát. Năm 1923, khi lâm bệnh nặng, Lenin vẫn viết bài Chúng ta cần làm gì để cải tổ Viện kiểm sát công nông cho Đại hội XII, trong đó trình bày một cách khoa học về tư tưởng giám sát và chế độ giám sát của Đảng và Chính phủ.
Đại hội XI là Đại hội cuối cùng Lenin tham gia đã xây dựng được một hệ thống giám sát trong Đảng tương đối hoàn chỉnh, đó là thành lập Ủy ban Kiểm tra Trung ương và Ủy ban Giám sát Trung ương. Ủy ban Giám sát Trung ương và Ủy ban Giám sát các cấp do đại hội đảng các cấp bầu ra, chủ yếu phụ trách công tác giám sát của tổ chức các cấp tương ứng.
Đến thời Stalin, trong tình trạng  LX bị phát-xít Đức tiến công, vị trí của Stalin trong Đảng không ai sánh kịp, sinh ra tệ nạn sùng bái làm cho ông bắt đầu tỏ ra quá tự tin, độc đoán. Từ đó, dưới thời Stalin, chế độ giám sát đồng bộ tương đối hoàn chỉnh do Lenin đích thân xây dựng đã không được thực hiện một cách triệt để. Đến năm 1934, Điều lệ Đảng do Đại hội XVII thông qua đã đưa ra quy định mới về chức năng của Ủy ban Giám sát. Theo đó, Ủy ban chỉ giới hạn trong việc kiểm tra hoạt động của tổ chức cấp dưới, giám sát hoạt động của những phe đối lập và đảng viên bất đồng ý kiến. Về căn bản, cơ quan giám sát không thể giám sát cơ quan lãnh đạo và thành viên cơ quan lãnh đạo thuộc tổ chức đảng ngang cấp. Tính nghiêm trọng của vấn đề còn thể hiện ở chỗ, bản thân cơ quan giám sát được giao trọng trách điều tra, xử lý chủ nghĩa quan liêu lại cũng bị nhiễm căn bệnh quan liêu. Việc giám sát các tổ chức đảng và các cán bộ cấp dưới thường được tiến hành chiếu lệ. Kiểu kiểm tra qua loa, chiếu lệ diễn ra ngày càng nhiều, gây phản cảm cho cấp dưới.
Đến thời Brezhnev lại xuất hiện các biểu hiện vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ, bằng cách vứt bỏ giám sát trong Đảng, dùng ý chí cá nhân hoặc thiểu số để thay thế trí tuệ của đa số. Thời Gorbachev càng đi ngược lại với nguyên tắc tập trung dân chủ, khiến cho cái gọi là “dân chủ” đi tới một cực đoan khác. Tại Hội nghị toàn thể Trung Ương tháng 2-1990, Gorbachev chủ trương: Nhận thức lại nguyên tắc tập trung dân chủ với trọng điểm tập trung vào dân chủ hóa. Điều đó có nghĩa là Đảng Cộng sản Liên Xô không còn là một tổ chức thống nhất về ý chí và hành động.
Khẩu hiệu “dân chủ hoá, công khai hóa” đã làm xuất hiện một trào lưu tự do tư sản và đây chính là điều mà Gorbachev cần để thực hiện đường lối chính trị của mình. Ông ta muốn lấy nó để đẩy nhanh việc thực hiện đa đảng và tư hữu hóa ở Liên Xô, đẩy nhanh sự suy vong của Đảng Cộng sản. Tháng 7-1990, Đảng Cộng sản Liên Xô tổ chức Đại hội 28. Trong báo cáo trình bày tại Đại hội, Gorbachev công khai phê phán nguyên tắc tập trung dân chủ, cho rằng: trong Đảng có một luồng tâm tư mãnh liệt chủ trương xoá bỏ nguyên tắc này khỏi điều lệ Đảng; bởi toàn bộ thực tiễn trước đây đã khiến thanh danh của nguyên tắc này trở nên tồi tệ. Và Điều lệ Đảng do Đại hội thông qua đã chính thức xóa bỏ nguyên tắc chỉ đạo của bộ máy tổ chức và toàn bộ hoạt động của Đảng là nguyên tắc tập trung dân chủ. Như vậy là, nguyên tắc tập trung dân chủ và giám sát trong Đảng - những điều được coi là chuẩn tắc sinh hoạt trong đảng của Đảng Cộng sản Liên Xô, đã bị vứt bỏ.
Điều đáng nói là Gorbachev đã lấy khẩu hiệu “dân chủ hóa” để che đậy việc dùng biện pháp chuyên chế cực đoan cá nhân, tiến hành đường lối của ông ta. Khi họp Bộ Chính trị, ông ta thường không lắng nghe ý kiến của các ủy viên khác. Thậm chí một mình ông ta thao thao bất tuyệt một, hai giờ đồng hồ, sau đó coi đây là chỉ thị hay nghị quyết của Đảng để thực hiện. Ngày 24-8-1991, khi chưa hề thực hiện bất cứ một trình tự pháp lý nào, thực chất là tự ý cá nhân, ông ta đã quyết định và tuyên bố giải tán Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô.
Sự sụp đổ của Đảng Cộng sản Liên Xô cũng bởi một loạt sai lầm trong công tác cán bộ của Đảng. Khi vứt bỏ chế độ tập trung dân chủ trong vấn đề cán bộ, tiêu chuẩn chính trị, nguyên tắc tài - đức trong việc tuyển chọn, đề bạt cán bộ của Đảng dần bị thay thế bởi quan hệ quen thân, cho nên hiện tượng xây dựng ê kíp, kéo bè, kéo cánh trong Đảng trở nên phổ biến. Dưới thời Brezhnev, khi xem xét, cân nhắc, đề bạt một ai đó, vấn đề quan trọng hàng đầu không phải là căn cứ vào năng lực của người đó, mà xem xem người đó có quan hệ với phe của Brezhnev hay không? Nhiều người thân tín chung quanh ông ta đều là những kẻ không có đủ tài - đức, trong đó không ít người là cấp dưới và bạn bè ông ta ở những nơi ông ta từng học tập và công tác. Người ta gọi đây là phe Dnepropetrovsk. Nikolai Tikhonov, con người tài - đức rất đỗi bình thường, nhưng do là đồng hương kiêm bạn học của Brezhnev mà được bổ nhiệm làm Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Liên Xô.
Tầng lớp đặc quyền trong điện Kremlin có quy tắc riêng của mình, chức vụ càng cao đặc quyền càng lớn thì sự chênh lệch về đãi ngộ vật chất mà họ được hưởng so với dân thường càng lớn. Đương nhiên những người được hưởng đặc quyền này chỉ là một bộ phận rất nhỏ trong đội ngũ cán bộ Đảng CS Liên Xô. Thế nhưng thứ đặc quyền này phải chăng là căn nguyên đầu tiên của sự bất mãn xã hội mà tầng lớp này đã gây ra?
Thời kỳ Liên Xô vừa bắt đầu xây dựng CNXH, mọi người phấn đấu gian khổ hướng tới một cuộc sống mới. Khi đang phải phấn đấu vất vả để thực hiện lý tưởng chung, xã hội không chấp nhận những hành vi giành chiếm độc quyền, mưu lợi cá nhân. Vào lúc nhà nước, dân tộc đứng trước nguy cơ tồn vong, nếu nói cán bộ lãnh đạo Đảng CS Liên Xô có đặc quyền gì đó thì đó chính là xung phong ra trận, xả thân chiến đấu, tắm máu sa trường, lãnh đạo nhân dân đánh đuổi quân xâm lược trong tiếng réo hờn căm của Kachiusa.
Tháng 4-1966, Đảng CS Liên Xô tổ chức Đại hội 23, Brezhnev đặc biệt tâm đắc câu nói của Khrushchev: "Sự ổn định của đội ngũ cán bộ là sự bảo đảm cho thành công", theo đuổi phương châm đó phát triển thành chế độ chức vụ suốt đời. Các cán bộ cao cấp của Liên Xô như Brezhnev đều qua đời khi còn đương chức. Chính sách cán bộ của Brezhnev đã khiến cho các thành viên trong tầng lớp lãnh đạo của Đảng CS Liên Xô gần như không có biến động trong suốt một thời gian dài.
Dưới thời Brezhnev, con cái tầng lớp đặc quyền chỉ cần dựa vào địa vị đặc quyền của bố mẹ là có thể dễ dàng được vào học tại những trường đại học tốt nhất. Sau khi tốt nghiệp lại được nhận vào các ban, ngành ưu việt nhất, đồng thời nhanh chóng được nắm giữ những cương vị quyền lực quan trọng. Thậm chí, đặc quyền còn có thể trở thành "lá bùa hộ mệnh" để cán bộ lãnh đạo mặc sức tham nhũng mà không bị cản trở.
Rubanov, con rể của Brezhnev, đã dựa vào quyền thế của bố vợ, quan lộ phất như "diều gặp gió". Chỉ trong vòng 10 năm, ông ta đã từ một sĩ quan cấp thấp trở thành thượng tướng, sau đó được bổ nhiệm làm Thứ trưởng thứ nhất Bộ Nội vụ. Còn Yuri, con trai Brezhnev thì được bổ nhiệm làm Thứ trưởng thứ nhất Bộ Ngoại thương Liên Xô khi còn rất trẻ.
Tầng lớp đặc quyền đã làm tổn hại nghiêm trọng thanh danh của CNXH, tạo ra hố ngăn cách lớn trong xã hội, làm hư hỏng xã hội. Khoảng cách giữa người dân bình thường và tầng lớp đặc quyền ngày càng lớn. Trong xã hội Liên Xô, người dân bình thường tự gọi mình là "chúng ta", còn gọi những người đặc quyền là "bọn họ".
Dưới thời Gorbachev, tầng lớp đặc quyền đã không còn thỏa mãn với việc theo đuổi hưởng thụ cá nhân, mà còn mong muốn chiếm hữu lâu dài mọi đặc quyền hiện có. Thậm chí còn để lại cho con cháu đời sau. Đồng thời, tầng lớp đặc quyền còn phát hiện ra rằng CNXH, lòng tin vào CNCS thường trực nơi cửa miệng và ánh hào quang đảng viên Đảng CS mà họ mang trên mình đã không còn giá trị sử dụng. Họ thấy rằng, những đặc quyền mà họ vốn có phải được thay đổi hình hài và CNTB là chế độ thích hợp nhất để hợp pháp hóa những lợi ích hiện có của họ. Đặc biệt, trong lúc Đảng CS Liên Xô và đất nước đang đứng trước nguy cơ tồn vong. Giữ vững lợi ích đặc biệt của mình và hợp pháp hoá chúng, tầng lớp đặc quyền đã không ngần ngại lột bỏ mặt nạ, công khai thúc đẩy vứt bỏ CNXH đi theo con đường của CNTB, tư hữu hoá toàn diện.
Trong thời gian này, tầng lớp đặc quyền lợi dụng quyền lực đang nắm trong tay để ra sức vơ vét, làm giàu cho bản thân. Nhất là các vị quan kinh tế trực tiếp quản lý tài sản của doanh nghiệp nhà nước. Họ lợi dụng sự hỗn loạn về thương mại hoá, thị trường hoá, kinh tế tự do hoá do Gorbachev tiến hành để làm một cuộc lật bài kinh tế, trực tiếp chiếm đoạt tài sản nhà nước thành tài sản riêng. Có kẻ thực hiện các cuộc giao dịch giữa quyền - tiền để có những ưu đãi và quota xuất khẩu nguyên liệu và vũ khí, bòn rút tài sản xã hội. Có kẻ thu siêu lợi trong các cuộc giao dịch chứng khoán, hàng hóa trả chậm rồi thành lập ngân hàng và các cơ quan tài chính khác. Một bộ phận thiểu số đó, sau này, trở thành những ông trùm tài chính mới.
Nhà kinh tế học nổi tiếng người Mỹ David Code có một câu nói có thể gọi là "đúng tim đen": Đảng CS Liên Xô là chính đảng duy nhất làm giàu trong tang lễ của chính mình. 
    Liên Xô là một nước hùng mạnh, khoa học Kỹ thuật tiên tiến, giàu tài nguyên khoáng sản, nhất là dầu mỏ và khí đốt, ý thức dân chúng tương đối thuần nhất không bị ngoại bang đô hộ nên không phức tạp như nước ta, nên nước Nga sau sự sụp đổ của LX, chỉ sau một thời gian ngắn đã hồi phục phần nào. Còn VN ta nếu sụp đổ, sẽ là hỗn loạn, là giành giật cấu xé, sẽ là bản sao dạng Pakistan, Apganistan, Irac hoặc Lybi gì đó, chứ còn lâu mới được như nước Nga hôm nay.
TPHCM
2-10-2012
      ĐÔNG LA