Thứ Ba, 23 tháng 4, 2013

NHỮNG DẤU VẾT KHÔNG PHAI - HƯƠNG ỔI


.          
Lại có một comment khiến tôi rất xúc động như thư của anh Viết Sơn, nhưng thư của anh Sơn thì sau mấy tháng tôi mới biết, còn của Hoang Nguyen  (nk.hoangld@gmail.com) chỉ mới mấy ngày thôi. Tính tôi lúc cao hứng mở thư, comment đều đều, nhưng có lúc cứ thấy chan chán, buồn buồn là bỏ mặc hết. Phải chăng đó cũng là bản chất buồn vui lẫn lộn của máu nghệ sĩ. Quả thật cuốn “Những dấu vết không phai” của tôi rất nhiều người thích, từ ông nhà văn được giải HCM nổi tiếng hàng đầu VN là Nguyễn Khải đến cô bé giúp việc gia đình vợ tôi. Một lần về nhà, con bé khoe với bả: “Cháu đọc cuốn sách này hay lắm cô ạ”. Bả trả lời: “mày không biết là chú nhà cô viết à?”. Đọc mấy lời tâm sự của Hoàng Nguyên, chú còn nhớ y nguyên hình ảnh của cô bé nói ở buổi giao lưu của Nhà xuất bản Trẻ với bạn đọc nhí ở một thư viện Hà Nội: “Tại sao người ta lại có thể viết ra được những truyện quá hay như thế”. Quả thực, xuất bản lần đầu chú đặt tên chú là Nam, thực ra mượn tên của thằng Nam con Bác Thái Thăng Long ở cùng khu tập thể, và chính nhờ bác ấy làm ở NXB Trẻ đã giúp nên cuốn sách đã ra đời. Chú tính sẽ viết thêm một ít, giờ có kinh nghiệm hơn sửa chữa đôi chút, rồi sẽ tái bản đẹp hơn. Nhưng khổ là những cái mới còn đầy chú cũng chưa in mà in cái cũ cũng hơi vô lý. Chú viết lách là tùy hứng chứ không cố công phấn đấu như người ta nên cũng có nhiều cái dở:
Hoang Nguyen (nk.hoangld@gmail.com), 4 days ago by: 183.81.6.223, về ĐÔNG LA: NHỮNG DẤU VẾT KHÔNG PHAI (I):
Thì ra chú là tác giả của tập sách cháu cực kì thích từ hồi bé cho đến bây giờ. Cuốn đấy cháu được đọc từ hồi lớp 5, lại mất bìa nên không biết tác giả là ai để tìm đọc tiếp. Cái chi tiết "thằng con bà dì bị rắn cắn chết" trong lúc 2 anh em đi ăn trộm ổi làm cháu ấn tượng mãi. Rồi cả dỗi mẹ bỏ cơm, làm hỏng bút sợ bị ông đánh, đến lúc trưởng thành, học siêu Toán nhưng lại có duyên với ngành Hóa, hình như là Nam, đúng là Nam rồi, làm cháu như sống lại tuổi thơ một lần nữa, cảm ơn chú. Cháu cũng thích Nguyễn Nhật Ánh, lớn lên thì nhạt dần, bây giờ thì cảm thấy truyện bác Ánh chỉ như hương trà thơm, thơm thật đấy nhưng rồi bay đi, chẳng đậm đà như trà vị còn đọng trên lưỡi. Sao chú không viết tiếp cuốn khác ạ, chú mải chỉ ra cái dốt ác của người lớn mà quên mất chăm bẵm cho tâm hồn bọn trẻ con rồi.
          Có một hôm, tôi không còn nhớ chính xác, khoảng trưa gì đó, tôi được tin: “thằng Bình con dì Dạm bị rắn cắn”. Tôi liền chạy đi coi thì thấy bên con đường chính chạy qua làng tôi, cha tôi đang cố cứu chữa cho thằng Bình, nhưng thực ra tôi thấy nó đã chết. Sự thật chỉ có thế. Sau nhiều năm, tại SG, tôi viết cuốn “Những dấu vết không phai”, muốn ghi lại những kỷ niệm thời thơ ấu của mình, sự kiện trên không thể không có, nhưng chuyện chỉ có thế nên tôi phải “bịa” ra những chi tiết, đắp điếm thêm thì mới thành một mẩu truyện văn chương được. Vì nhiều cái không có nên tôi đã đổi tên nhân vật. Người lạ sẽ thấy không sao, nhưng với tôi viết về kỷ niệm của mình, cứ thấy nó làm sao ấy. Nên tôi đã quyết định, chỉ về những tính  xấu, tính ác, tôi sẽ đổi tên nhân vật, còn những chuyện bình thường, tôi sẽ lấy những tên thật, như là để nhớ về những người thân quen, người bạn của mình. Còn riêng tôi, tôi sẽ dùng tên thằng con tôi. 
ĐÔNG LA
HƯƠNG ỔI
Mẹ tôi có một người em họ, con cô con cậu, mà chúng tôi gọi là “dì Dạm”,  nhà ở tận xóm trên. Dì có một đứa con trai kém tôi vài tuổi, tên là Bình. Chúng tôi vẫn thỉnh thoảng đi chơi với nhau. Người nó cao gầy, tóc thì quăn quăn, da rất trắng.
Mùa thu ấy, vào một buổi chiều, tôi đang câu ếch ở ao bèo bằng hoa mướp thì thấy thằng Bình đến. Nó nói:
- Anh Huy! Em đánh mấy cái rọ cá rô ở ruộng lúa bên Nghè ông Bí, mình đi nhấc đi. Anh câu thế này thì đến bao giờ mới được ăn.
Tôi đồng ý ngay, liền về nhà xin phép mẹ. Mẹ tôi nói:
- Đi thì nhớ mà về. Bọn bay hay la cà, tắm sông, tắm ngòi, chuột rút là chết đuối đấy, nghe không!
Chúng tôi theo nhau ra cánh đồng sau làng. Ở quê tôi có một câu nói: “Cá rô tháng tám chả dám bảo ai”, nghĩa là cá rô tháng tám rất béo, rất ngon, có ít thì giấu đi mà ăn. Quả đúng như vậy. Mùa thu, những ruộng lúa trổ bông, hoa lúa rơi trắng mặt nước đã vỗ béo đàn cá. Bây giờ tôi đã là kỹ sư, là dân của thành phố mang tên Bác, đã được thưởng thức đủ món của ngon, vật lạ, nấu nướng cầu kỳ, tại những nhà hàng sang trọng, nổi tiếng; thế nhưng tôi vẫn không bao giờ quên được nồi canh cá rô nấu rau cải có trứng cá nổi vàng trên mặt, ở vùng quê tôi. Quê tôi cũng có câu nói về những thực phẩm có hương vị đặc biệt “Gan gà, tiết vịt, trứng cá rô”. Cách bắt cá rô ở quê tôi cũng rất khoa học. Người ta khoét một cái vũng nhỏ dưới ruộng, cho thóc đã ngâm chua vào, úp rọ lên; cá rô rất khoái cái món đó chui vào ăn, ngoi lên thở là bị vào rọ.
Nghè ông Bí là một khu đất có nhà ông Bí, ở cánh đồng sau làng tôi. Hồi nhỏ, lũ trẻ con ở những xóm gần cận không thể nào không liên quan đến khu đất như ốc đảo đó. Nhất là những trưa hè nắng gắt, chính nó đã xòe ô che cho tuổi thơ lũ chúng tôi. Đặc biệt, khu đất có dấu tích của những công trình cổ mà hồi nhỏ chúng tôi không chú ý lắm và cũng không có ai nói rõ nguồn gốc. Mãi sau này,  khi bản Ngọc phả Thành Hoàng làng được tìm thấy sau bao năm lưu lạc, tôi mới biết. Lúc mới tìm thấy nó, chẳng có ai ở làng đọc được cả. Thế rồi, dân làng đã chuyển bản Ngọc Phả ấy đến tay tôi với một nhiệm vụ trọng đại, tìm một chuyên gia dịch bản Ngọc phả đó. Với người bình thường đúng là một việc khó khăn nhưng tôi lại hoàn thành nhiệm vụ của dân làng giao nháy mắt là xong, chỉ mất một bữa nhậu. Đơn giản là vì tôi rất thân với một ông nhà văn mà trong giới gọi là “Bách khoa Toàn thư” (chính là ông Hoài Anh – ĐL ghi chú), rất giỏi chữ nho. Thì ra “Đằng Nghè”, tên dân làng gọi khu đất ở cánh đồng phía sau làng, chính là hành cung của vị Thành Hoàng làng tôi; một vị tướng của Trần Hưng Đạo, sau chiến thắng giặc Nguyên, đã được phong đất gần với con cháu của Ngài ở phía Từ Ô, giáp với Ân Thi, Hưng Yên. Mà đúng là do duyên khởi, ông nhà văn dịch giúp bản Ngọc Phả lại chính là hậu duệ nhà Trần, nên trước đó rất lâu, có lần ông đã hỏi tôi: “Ông ở Hải Dương có biết vùng đất Từ Ô không?”.
Đến ruộng lúa bên gò đất, tôi theo thằng Bình xuống nhấc rọ. Tới gần mỗi chiếc, chúng tôi đều thấy bọt túa ra xung quanh, nhìn bên trong thì thấy cá rô lúc nhúc, đều đỏ hoét vì húc vào nan rọ. Có mấy chiếc mà chúng tôi bắt được đến gần trăm con cá. Chúng tôi khoan khoái nằm xoài trên một bãi cỏ, nghỉ. Bầu trời mùa thu xanh ngăn ngắt, cao lồng lộng. Liệu có một nơi nào đó trong cái mênh mông, xanh thẳm kia có những chiếc rọ cá rô như chúng tôi không nhỉ? Chợt chúng tôi thấy trong làn gió nhẹ của đồng nội có phảng phất hương ổi. Đúng rồi! Những cây ổi trên gò đất “đằng Nghè” đã có ổi chín. Thằng Bình liền rủ tôi:
- Hái ổi đi anh Huy! Mình chui ở ruộng lên, ông Bí không biết đâu.
Tôi đồng ý, nhưng trong bụng vẫn áy náy. Cha tôi thường nói “ăn cắp là một trong những tật xấu nhất của con người”. “Một vài quả ổi con thì ăn thua gì !”, tôi đã tự trấn an như vậy. Lên gò, chúng tôi thấy có rất nhiều ổi chín. Nhiều quả đã bị chào mào khoét, rơi cả xuống đất. Mặt gò cỏ mật mọc rất rậm. Cả không gian dâng đầy một thứ hương thơm ngát, được trộn bởi hương ổi và hương cỏ mật. Nhưng tự dưng tôi bỗng cảm thấy chờn chợn. Hình như linh tính kỳ lạ đã báo cho tôi biết sẽ có một điều không may xảy ra: “Sẽ bị ông già bắt chăng ?” hay “bị ngã gãy tay ?”. Tôi chợt nhớ tới lời mẹ tôi dặn trước lúc đi nên định ngăn thằng Bình lại, nhưng những quả ổi lại có sức quyến rũ quá! Ôi, những quả ổi quê tôi! Chúng tuy nhỏ nhưng thơm và ngọt biết bao!
Thằng Bình đã đến gần một cây ổi, chuẩn bị trèo lên, chợt tôi thấy nó kêu thất thanh:
- Á! Anh Huy ơi, rắn!
Vừa sợ rắn, vừa sợ ông Bí phát hiện, chúng tôi vội quay ra, ôm rọ cá, chạy biến. Nhưng chạy được một lúc, tôi quay đầu lại thì thấy thằng Bình đã tụt lại một quãng xa. Tôi vội chạy quay lại bên nó, thì trời ơi, tôi thấy da mặt nó tái mét. Nó thở hổn hển một cách rất khó nhọc, rồi từ từ khuỵu xuống! Tôi biết là nó đã bị rắn độc cắn. Cõng nó chạy thì không đủ sức, tôi đành cắm đầu chạy một mạch đến trạm y tế báo cho cha tôi biết. Cha tôi là y sĩ, trưởng trạm. Được tin, cha tôi vội vàng vặt một nắm rau răm, lấy chai rượu thuốc có ngâm con rệp, rồi nhảy lên chiếc xe Liên Xô, mà chúng tôi vẫn gọi là xe “trâu”, đạp nhanh. Tôi cắm đầu chạy theo. Đến chỗ thằng Bình nằm, tôi kinh hoàng khi thấy mắt nó trợn ngược, miệng sùi bọt, da mặt thì tím ngắt. Cha tôi vừa đổ thuốc vào miệng nó vừa lấy dao khía vết thương ở chân để nặn máu độc. Nhưng đã quá muộn, nó đã ngừng thở nên không nuốt được, thuốc cứ tràn ra ngực.
Sau đó không biết ai đó đã lấy một tấm chiếu đắp lên mình nó. Người ta không dám đưa nó về nhà vì lo cho dì tôi. Thật tội nghiệp, bà đã ngất đi sau khi nhận được cái tin dữ dội ấy. Còn chú thì đang ở chiến trường. Sau ngày giải phóng ở nhà mới biết, chú cũng đã hy sinh!
Sau buổi chiều dữ dội ấy, nhiều đêm liền tôi không tài nào chợp mắt được. Trái tim non trẻ của tôi đã chịu một nỗi đau quá lớn. Hình ảnh thằng Bình, thằng em tôi, mắt trợn ngược, miệng sùi bọt, da mặt tím ngắt cứ hiện lên trong đầu tôi. Chính nó đã rủ tôi đi hái ổi, nhưng tại sao, tại sao tôi lại không ngăn nó, khi đã cảm thấy một điều không hay sẽ xảy ra. Có phải vì tôi đã tham ăn, đã vì những quả ổi chết tiệt ấy không ?
Viết tại Phú Nhuận
TPHCM
9-1986