ĐÔNG LA
CÂU CHUYỆN CỦA TỐNG VĂN
CÔNG
VỚI NGUYÊN NGỌC VỀ TỰ DO
BÁO CHÍ
Thế là gần như liên tục, Báo Văn Nghệ
TPHCM đăng các bài cho tôi từ số 269 cho đến số mới nhất là 280.
Tòa báo gần như giữ nguyên bản thảo
dưới đây:
|
Trên Viet-
Studies 15/6/2012, Tống Văn Công có bài Từ
một bài báo nhỏ. Qua câu chuyện với Nhà văn Nguyên Ngọc, ông muốn bàn về vấn
đề tự do báo chí ở Việt Nam.
Vốn là TBT Báo Lao động, Tống Văn Công kể một lần cấp dưới của ông báo cáo có một
sĩ quan của A.25 tới tòa báo yêu cầu cho xem bài viết của Nhà văn Nguyên Ngọc
gửi đăng báo. Tuy đã đồng ý nhưng Tống Văn Công vẫn băn khoăn: “Vì sao bên công an lại có cách hành xử thiếu
tôn trọng đối với tổng biên tập một tờ báo đến như vậy? Chẳng lẽ, các anh ấy
cho rằng tôi không biết đánh giá một bài báo tốt hoặc có hại? Chẳng lẽ một
người như nhà văn Nguyên Ngọc, đã bao lần vào sinh ra tử suốt hai cuộc kháng
chiến vẫn có thể bị nghi ngờ cố ý gây mất an ninh chính trị?” Rồi ở phần
cuối bài ông kể tiếp: “Cuối năm đó, có
cuộc Hội nghị tổng kết công tác báo chí toàn quốc, do ông Đào Duy Tùng, Ủy viên
Bộ chính trị phụ trách khối Tuyên-Văn-Giáo của Đảng chủ trì”, Tống Văn Công
đã phát biểu: “Việc cán bộ A.25 yêu cầu
đọc bài báo của nhà văn Nguyên Ngọc trước Tổng biên tập là không hợp lý và có
hại”. Khi biết có một vị tướng có trọng trách phản ứng, ông đã viết thư phân
bua: “Thưa anh, tuy không tán thành cách
làm như vậy, nhưng tôi chưa bao giờ đưa chuyện đó ra với bên ngoài”. Thật
thú vị, đó là vào thời điểm Tống ta còn đương chức TBT, còn bây giờ hưu lâu rồi
thì chắc không còn sợ gì nữa nên sau bao nhiêu năm, Tống Văn Công không chỉ đưa
chuyện đó “ra ngoài” mà còn tung hẳn
lên mạng cho toàn thế giới coi chơi. Phải chăng ông muốn cho cả thế giới biết
VN không có quyền tự do báo chí, và nó chính là một trong những nguyên nhân
thúc đẩy ông đi đến hành động “lật pháp” hôm nay?
Là
một TBT một tờ báo lớn lẽ ra ông phải làm cho nội dung báo của mình không chỉ
A25 không giám sát mà họ còn học được nhiều điều bổ ích do nghiệp vụ báo chí
của ông mang lại. Tiếc là vì trình độ, không chỉ Tống Văn Công mà còn rất nhiều
người trong làng báo, từ TBT đến phóng viên, vẫn buộc nước ta phải sinh ra A25
để làm những điều cần thiết, đảm bảo an ninh trong mặt trận tối quan trọng là
tư tưởng văn hóa. Những ngày hôm nay, khi người ta được tự do viết tung lên
mạng, thông tin sẽ lan truyền khắp thế giới, xem chừng công việc an ninh tư
tưởng văn hóa còn càng cần thiết hơn.
Câu
chuyện của Tống Văn Công kể trên xuất phát từ việc: “Lúc ấy đang ồn ào vụ anh Nguyên Ngọc bị buộc
“thôi giữ chức Tổng biên tập báo Văn nghệ để nhận công tác khác” bởi một quyết
định của Ban thường vụ Hội Nhà văn. Dư luận gọi đó là “một quyết định cách chức
trá hình”. Như vậy nếu Tống Văn Công hiểu
lẽ đời thì sẽ thấy chuyện người ta giám sát bài của một người “có vấn đề” cũng là chuyện bình thường.
Tiếc là chính ông cũng không đủ trình độ và phẩm chất để hiểu cho được bản chất
của “vụ Nguyên Ngọc” và chính bản thân
Nguyên Ngọc.
Theo
Xuân Sách (Xuân Sách Và
Tập Thơ Chân Dung Nhà Văn - Đỗ Ngọc
Thạch): “Nguyên Ngọc người nhỏ
nhưng gan lớn … không nhân nhượng và lẽ tất nhiên phải xảy ra: Anh không “đổi”
thì tôi phải “thay” như lời miệng nói của ông Tố Hữu: “Cậu Ngọc chỉ làm được bí
thư chi bộ, làm bí thư Đảng đoàn thì quá sức. Việc đặt Nguyên Ngọc ngồi chỗ đó coi như tôi làm bài thơ dở, phải làm
lại”.
Tông Văn Công cho Biết: “Báo Tuổi Trẻ đăng thư ngỏ của 12 nhà văn thành phố Hồ Chí Minh ủng hộ
tổng biên tập đổi mới Nguyên Ngọc. Phụ bản tạp chí Cánh Én ở miền Trung ra
chuyên đề ca ngợi Nguyên Ngọc đổi mới báo Văn Nghệ và lo ngại cho số phận tờ
báo sẽ xuống dốc khi bản thân Tổng biên tập bị trù giập. Nhà thơ Thanh Thảo ở
Quảng Ngãi, nhà thơ Bùi Minh Quốc ở Đà Lạt gửi thư ngỏ phản đối việc cách chức
trá hình đối với Tổng biên tập Nguyên Ngọc. Sau đó ít lâu, nhà thơ Bùi Minh
Quốc đến tòa soạn báo Lao Động cho tôi biết, anh đã bị Tỉnh ủy Lâm Đồng quyết
định khai trừ Đảng và cách chức Chủ tịch Hội Văn học Nghệ thuật tỉnh Lâm Đồng,
do viết thư ngỏ và ký kiến nghị phản đối cách xử lý đối với nhà văn Nguyên
Ngọc. Tôi thay mặt báo Lao Động gửi văn thư kèm theo đơn thư của nhà thơ Bùi
Minh Quốc về kỷ luật khai trừ Đảng đối với anh, gửi lên Ban Tư tưởng Văn hóa
Trung ương”.
Cái gọi là dư luận trên diễn đàn văn học nghệ thuật
nước ta nhiều trường hợp thường dựa theo cảm tính, thậm chí người ta còn bảo vệ
nhau theo kiểu băng nhóm, cánh hẩu mà không khách quan nhìn vào bản chất đích
thực của vụ việc. Hồi ấy tôi mới chập chững vào làng văn nên chỉ biết sơ sơ.
Bây giờ mới có điều kiện để hiểu biết chính xác hơn.
Năm
1979, với cương vị một Bí thư Đảng đoàn Hội Nhà Văn VN, Nguyên Ngọc từng đưa ra
bản Đề dẫn có những ý rất hay:
“Hôm
nay, trong hội nghị này, chúng ta… với tư cách là những người cầm bút của Đảng,
tức là những người vừa là những người chiến sĩ của Đảng trên mặt trận văn học,
vừa là bộ phận tham mưu của Đảng trên mặt trận này”.
Trong
cuộc gặp nổi tiếng với TBT Nguyễn Văn Linh để “cởi trói” văn nghệ, Nguyên Ngọc nói: “nghệ thuật giữ cho con
người không sa xuống thành con vật” và “Cái cốt lõi của văn nghệ
là tính nhân đạo”.
Tiếc
là khi triển khai vào thực tế thì giữa “lời nói” và “việc làm” của Nguyên Ngọc lại
ngược nhau. Như tôi đã viết một lần, ông đã ủng hộ hoặc trực tiếp là bà đỡ sinh
ra một đội ngũ “chiến sĩ” là những người đã tấn công vào thành trì mà
nhân tính của con người đã dựng lên; từ những chuẩn mực của đạo lý, luân lý,
pháp lý đến thẩm mỹ. Trên tờ Văn nghệ, khi là TBT, Nguyên Ngọc đã cho in truyện
ngắn "Phẩm tiết" của Nguyễn Huy Thiệp. Truyện đã miêu tả Vua
Quang Trung như một tay du côn và cho Nguyễn Ánh mới là nòi vương giả. Nguyễn
Huy Thiệp (trong bản gốc truyện) cũng đã dùng tài văn “nhét c. vào mồm
thằng Khải tài như cái đấu” mà dám chê “tiệc của vua nhạt” và “xẻo d. thằng Thi” xem có còn “dê được không?”. Chính truyện này là một
trong những nguyên nhân chủ yếu khiến không chỉ Nguyên Ngọc mà cả “sếp” của ông
là Tướng Trần Độ bị mất chức.
Không
chỉ có thế, Nguyên Ngọc còn cho đăng văn Nguyễn Huy Thiệp có một loạt chi tiết,
hình ảnh, ý tứ ngược lại chính lời của ông nói về “tính nhân đạo”. Về chân dung người nông dân: “Chẳng có khuôn mặt
nào đáng là mặt người. Mặt nào trông cũng thú vật, đầy nhục cảm, không đểu
cáng, dối trá thì cũng nhăn nhúm đau khổ”; tả mặt một người “đen và tái như da ở bìu dái”, “lông
chân như lông lợn”; về chính trị: “Chính trị rặt trò mờ ám bỉ ổi”;
về văn chương: “Văn chương là thứ bỉ ổi bậc nhất”; trong truyện Không
có vua, hành động loạn luân, bố chồng bắc ghế nhìn trộm cô con dâu tắm đã
được biện minh: “Đàn ông chẳng nên xấu hổ vì có con buồi”; ở chỗ khác: “Đoài bảo: "Nhà kia có cô con dâu, bố
chồng bóp vú cô ta . Đứa con trai hỏi: "Sao ông bóp vú vợ tôi?" Ông
bố bảo: "Để trừ nợ. Thế hồi xưa sao mày bóp vú vợ tao?” Ghê sợ hơn nữa, trong truyện Tướng về hưu,
nhân vật chính cho chuyện vợ là bác sĩ sản khoa thường lấy xác thai nhi nấu cho
chó ăn là “chả quan trọng gì”; v.v…
Có
những điều mà những người bình thường khi nói tới ai cũng phải xấu hổ, nhưng
trong truyện Nguyễn Huy Thiệp, tất cả đều được nói ra một cách tự nhiên. Chuyện
bà cụ nói với bạn của đứa cháu: “Còn tôi,
cả đời chỉ biết mỗi một con b..., mang tiếng thủy chung đức hạnh,… chẳng biết
báu cho ai, chỉ biết về già sống lâu khổ con khổ cháu”; chuyện người chị
dâu nói với bạn em chồng: “Có mấy tay
thanh niên ở bên Duệ Dông đứng sau chúng tôi. Một tay dí chim vào đít cái Lược”; đạo diễn nói với diễn viên: “Cậu có
dáng dấp một thằng trai điếm. Phụ nữ mê cậu. Trong phim có cảnh Chiêu Hổ bóp vú
các cô thôn nữ, cậu vào vai ấy tuyệt vời”. Chuyện ngoại tình luôn là chuyện
động trời còn trong truyện Nguyễn Huy Thiệp, chồng nói với vợ cứ như không: “Biết vợ hai phong tình, vẫn hay đi lại với
nhiều người, ông giáo Quỳ cũng mặc, chỉ bảo: Cô ngủ với ai thì nhớ đòi tiền,
không có tiền thì lấy thóc hay lấy lợn vịt thế vào chứ đừng ngủ không” v.v…
Bằng
những cái nhìn thản nhiên đó, chính Nguyễn Huy Thiệp đã biến Nguyên Ngọc thành
một “thằng cha ba xạo” khi nói với TBT
Nguyễn Văn Linh là “nghệ thuật là phải
giữ cho con người không sa xuống thành con vật”!
Dù
vậy, trong bài Van-hoc-Viet-Nam-dang-o-dau?, Nguyên
Ngọc viết:
“Nhưng tôi nghĩ điều quan trọng nhất ở Nguyễn
Huy Thiệp… anh không lao mình vào dòng thác văn học phơi bày và tố cáo… Anh
không làm cái mà ở Trung Quốc người ta gọi là "văn học vết thương ".
Anh làm một việc khác: anh cố tìm ra "nguyên nhân sơ khởi" của tình
trạng xã hội và con người Việt Nam
đó, và để làm việc ấy, cố lần ngược lên đến ngọn nguồn của nó.
Và như vậy, anh đã khởi xướng ra trong văn học Việt Nam hiện đại cái mà tôi muốn gọi là xu hướng tự vấn của
xã hội và con người Việt Nam.
Một luồng sinh khí mới, lành mạnh và sâu sắc được thổi vào văn học và đương
nhiên, từ văn học vào xã hội… anh đã làm rất đúng cái mà văn học - nền văn học
của dân tộc nào cũng vậy - đúng ra cần phải làm: sự tự soi mình của dân tộc, và
của con người…”
Ở đây đúng là Nguyên Ngọc lại “làm văn” về Nguyễn Huy Thiệp. Ông đã sai
khi viết Nguyễn Huy Thiệp “cố tìm ra
"nguyên nhân sơ khởi" của tình trạng xã hội và con người Việt Nam”;
“khởi xướng ra trong văn học Việt Nam
hiện đại cái mà tôi muốn gọi là xu hướng tự vấn”, “sự tự soi mình của dân tộc, và của con người”. Vì văn Nguyễn Huy
Thiệp chỉ đơn giản là văn chương “phơi
bày”; một sự phơi bầy không “tố cáo”, không “nguyên nhân sơ khởi”;
không “tự vấn”, không “tự soi”; đó chính là cái “độ không” (Le Degré zéro) mà Roland
Barthes đã phê phán về cái thứ văn chương trung
tính trong Le Degré zéro de l'écriture suivi de Nouveaux essais
critiques mà Nguyên Ngọc đã dịch là Độ
không của lối viết, trong đó “de l'écriture” dịch là “lối viết” xem chừng không ổn.
Trong
văn chương thế giới thực tế còn có nhiều chuyện còn ghê gớm hơn. Csáth Géza với truyện Kẻ giết mẹ kể
chuyện hai đứa trẻ vì không được người mẹ quan tâm đã phản kháng một cách vô
thức bằng cách bắt giết những con thú hoang, rồi chúng quen tay, khi đến tuổi
dậy thì cần tiền thỏa mãn tính dục, chúng đã dễ dàng giết chính mẹ mình. Dư Hoa
trong truyện Sống kể câu chuyện trong một bệnh viện người ta đã lấy sạch
máu một đứa học trò 13 tuổi, con một cựu binh, làm nó chết, để tiếp máu cho bà
vợ của ông chủ tịch huyện vốn là lính của cha đứa bé.
Giống
như một bệnh nhân cần bác sĩ, cái cơ thể xã hội cũng cần đến những bác sĩ, đó
chính là những nhà tư tưởng và những nhà văn mà tác phẩm của họ có tầm tư
tưởng. Họ viết về phần tăm tối của con người để rung hồi chuông cảnh tỉnh, viết
về cái ác với tấm lòng lương thiện chính là hướng người đọc về phía thiện.
Nhưng văn của Nguyễn Huy Thiệp không như vậy. Qua những dẫn chứng trên, Nguyễn
Huy Thiệp thường xóa nhòa ranh giới giữa đúng sai, thiện ác bằng cái nhìn vô
cảm của mình và bằng những hành động, lời nói mất nhân tính của các nhân vật.
Dù được Nguyên Ngọc và rất nhiều người tán dương,
Nguyễn Huy Thiệp cũng bị nhiều người phủ nhận. Nhà văn Hồ Phương cho Nguyễn Huy
Thiệp có “cái nhìn xã hội thiên về đen
tối”; (Đi tìm Nguyễn Huy Thiệp,
tr.452). Đỗ Văn Khang: “Đặc biệt cái tâm
mà không sáng thì không thể làm văn được”(tr.242). Mai Ngữ cho Nguyễn Huy
Thiệp: “đã lăng nhục cha ông, tổ tiên
mình” (tr.426). Tạ Ngọc Liễn: “càng
kỳ quặc hơn khi cho rằng văn hóa Việt Nam (mà biểu tượng là Nguyễn Du)
chỉ là đứa con hoang của nền văn minh Trung Hoa cưỡng hiếp đẻ ra. Tôi không
nghĩ tác giả luận điểm này là người mắc bệnh tâm thần nhưng đó không phải là sự
suy tưởng của một đầu óc lành mạnh” (tr.173). GS Trần Thanh Đạm cho Thiệp
có “những ngôn luận xằng bậy đối với các
văn hữu trong Hội nhà văn thông qua các bài như: Hoa thuỷ tiên, Mổ nhà văn”;
Bế Kiến Quốc: “Chỉ tiếc Thiệp không đi
hướng thiện này, anh ta đi hướng ác, ác quá, cùn quá, lặp lại mình quá sẽ mất
Thiệp”; Vọng Thanh: “cái ác của
Nguyễn Huy Thiệp là từ tâm ác ra chứ không phải tưởng tượng ở trên giấy trắng
mực đen đâu” (Văn nghệ TPHCM).
Tôi
đã tự hỏi cái gì đã làm nên giọng điệu của văn Nguyễn Huy Thiệp, cái chất thực
dụng, lọc lõi, khinh bạc đến ghê người đó. Các cụ đã nói “văn là người”, triết học
cũng chỉ rõ “tồn tại xã hội quyết định ý
thức xã hội”. Quả thật, khi đọc bài của LÊ XUÂN: VỀ CÁI TÀI CỦA NGUYỄN HUY
THIỆP trên Văn nghệ TPHCM thì mọi chuyện đã rõ như ban ngày:
“Trong giới giáo chức Tây Bắc những năm 1970 …
cả nước nói chung đói kém, vất vả lắm vì chiến tranh… nhưng Thiệp đã “ma lanh”
“láu lỉnh” “khôn ngoan” nhiều thứ nên “sống khỏe” hơn bạn bè. Thiệp … mua vải
vóc, mắm muối, xà phòng, gạo thịt… … rồi đem ra ngoài bán lại kiếm lời. … Thiệp
về Nhà xuất bản Giáo dục ở Hà Nội … “bạo gan” lắm, có lần dám bán đi hàng xe
trâu sách mới in cho dân làm pháo lấy tiền tiêu xài. “Đúng là đốt sách làm ngu
học trò”…. Sự việc vỡ lở thế là Thiệp lại ba lô xin về Công ty Kỹ thuật trắc
địa bản đồ, thuộc Cục Bản đồ cho đến khi về hưu”.
Vậy
mà tại sao Nguyên Ngọc lại lăng-xê Nguyễn Huy Thiệp và quyết bảo vệ đến cùng?
Phải chăng ông tự cho mình có cái đầu siêu đẳng nên mới thấy được những cái cao
thâm của văn Nguyễn Huy Thiệp? Theo quán tính dư luận thì ông cũng có cơ sở để
tin lắm. Vì với nhiều người Nguyên Ngọc vẫn là người có công đầu trong “đổi mới”
văn chương, vẫn là một người có trí cao tâm sáng. Nhưng nếu ai đủ thông thái sẽ thấy hình như không
phải thế!
Khi
là người bên lề, Nguyên Ngọc đã cố công truyền bá lý luận văn học phương Tây.
Nhưng do ông không hiểu bản chất vấn đề nên đã vừa dịch sai vừa truyền bá những
quan điểm trái ngược nhau.
Cuốn
Le Degré zéro de l'écriture suivi de Nouveaux essais critiques của
Barthes Nguyên Ngọc đã dịch là Độ không của lối viết. Barthes quan niệm
văn chương có 3 chiều. Ngôn ngữ và lối viết tạo nên một mặt phẳng,
còn chiều thứ ba l'écriture chính là sự cao sâu của tác
phẩm, thể hiện trách nhiệm cũng như sự dấn thân của nhà văn với xã hội. Như vậy
Nguyên Ngọc dịch l'écriture là lối viết vừa
lẫn lộn, vừa sai ý của Barthes.
Không
chỉ dịch sai, Nguyên Ngọc lại truyền bá tiếp quan điểm sáng tác của Kundera ngược
với quan điểm của Barthes khi dịch cuốn Nghệ thuật tiểu thuyết. Bởi
triết lý sáng tác của Kundera là Hiện tượng học. Trên tờ tạp chí ở New York, The Paris Review, Kundera đã trả lời phỏng vấn của Christian Salman:
“Thi
sỹ là anh chàng trẻ tuổi được mẹ dắt tay đến trưng bày trước cái thế giới mà anh
ta không thể bước vào được. Anh thấy đấy, định nghĩa ấy không phải là xã hội
học, không phải là mỹ học, cũng chẳng phải tâm lý học”.
Christian Salman: Nó là hiện tượng học.
M.
Kundera: Tính từ này không tồi,
nhưng tôi tự cấm mình dùng”.
Theo Kundera: “Nắm bắt cái tôi, trong các tiểu thuyết của tôi, điều đó có nghĩa là nắm
bắt lấy bản chất cục diện hiện sinh của nó”.
Tóm lại, Hiện tượng học, cái nền tảng để Chủ nghĩa Hiện sinh ra đời, đề cao nhận thức chủ quan của cá nhân, đặt “thế
giới trong ngoặc”. Nghĩa là không có chuyện “dấn thân” cái gì hết,
tức quan điểm của Kundera là ngược
với của Barthes!
Chính
vì không hiểu bản chất vấn đề, Nguyên Ngọc đã chạy theo cái vỏ của những khái
niệm lấp lánh, nên mới làm một việc mâu thuẫn như vậy.
Còn
về tính nết của Nguyên Ngọc, Văn Chinh từng viết trên blog của mình: “Trước hết, do cá tính nghệ sỹ của ông. Nhà
văn HP (Hồ Phương) kể: “Cái tính
thằng này (ý nói NN, họ là bạn bè) nó thế. Họp chi bộ kiểm điểm một đảng viên
bóp vú một cô, khiến cô ấy tức tối, mỗi người thường chỉ nói một câu góp ý tác
phong chung chung. Riêng nó nói gần hết buổi họp và sau khi chỉ trích cái sai
một cách gay gắt, nó thường nâng quan điểm lên thành anh đã coi phụ nữ như một
thứ đồ chơi, chỉ có bọn tư sản mới thế!”; rồi: “Với cá tính triệt để và cực đoan, … Cái người nhân danh dân chủ này lại
mất dân chủ một cách trắng trợn đến thế, là một bi kịch của trí thức nước nhà
chứ không riêng gì một mình Nguyên Ngọc, tôi nghĩ thế. Mặt khác, cái lý cố gì
mà Tổng biên tập tờ báo của Hội lại không đăng, nhất định không đăng nghị quyết
của BCH Hội nhận định và chấn chỉnh báo Văn
nghệ của Hội… Vâng, như tôi biết, đó là hai trong các nguyên cớ trực
tiếp người ta đã thay Tổng Biên tập Nguyên Ngọc”.
Như vậy, sự băn khoăn của Tống Văn
Công: “Chẳng lẽ, các anh ấy cho rằng tôi
không biết đánh giá một bài báo tốt hoặc có hại? Chẳng lẽ một người như nhà văn
Nguyên Ngọc, đã bao lần vào sinh ra tử suốt hai cuộc kháng chiến vẫn có thể bị
nghi ngờ cố ý gây mất an ninh chính trị” là hoàn toàn có cơ sở. Tống Văn
Công đúng là cũng có thể không biết đánh giá một bài báo và cũng không đủ tầm
để hiểu về một nhà văn như Nguyên Ngọc. Vì thế A25 người ta có hành động như
ông kể thì cũng hoàn toàn có lý và cần thiết.
Tiếc là dù các cơ quan chức năng có “làm hết
công suất”, cả những nhà phê bình chân chính có viết mòn bút cũng không thể ngăn
được những hậu quả khi những sự tung hô sai trái của văn chương nghệ thuật đã
được truyền thông hóa. Bởi sự sai trái thường được lực lượng đối nghịch khai
thác tối đa đế chống phá đất nước, chống phá sự ổn định và cuộc sống bình yên
của nhân dân.
Trong bài viết, Tống Văn Công có
đặt một câu hỏi cho một vị có trọng trách về an ninh văn hóa: “Khoảng cách giữa
ông và tôi chỉ là một câu hỏi: “Cỗ xe báo
chí trên con đường tự do, cần bao nhiêu tay lái?... Anh Nguyên Ngọc cũng vấp
bước trên con đường tự do ấy” Câu hỏi này chắc sẽ làm cho các quốc gia có nền
báo chí tự do vô cùng kinh ngạc!”
Tôi xin trả lời giúp câu hỏi này,
nếu các vị trong làng báo đều có trí cao tâm sáng thì chẳng phải cần có một tay
lái nào cả!
TPHCM
6-11-2013
ĐÔNG LA