Thành phố HỒ CHÍ MINH
Tháng Giáp Tý năm Quý Tỵ (tháng
12 năm 2013
****************************************
KÍNH THƯA HƯƠNG
HỒN HAI CỤ:
ỨC TRAI và
LỄ NGHI HỌC SỸ
Bảy
trăm năm qua, trải nhiều biến cố và thăng trầm lịch sử, dù nhiều chính kiến
khác nhau nhưng các lớp hậu sinh cùng nhìn nhận tài năng, nhân cách, sự nghiệp
và tinh thần tư tưởng của Nguyễn Trãi đã thành di sản văn hóa vô cùng quí giá,
là niềm tự hào của mỗi người Việt Nam . Con người này thật toàn diện,
như lịch sử sinh ra giữa lúc nhân tài như lá mùa thu để giải thoát một
dân tộc đang trong đêm dài đau thương bế tắc. Dưới ngọn cờ “Lấy
đại nghĩa thắng hung tàn / Lấy chí nhân thay cường bạo”, nghĩa quân Lam
Sơn “đánh một trận sạch không kình ngạc,
đánh hai trận tan tác chim muông”! Lũ giặc nước “hồn bay phách lạc” ta lại “thể
lòng trời mở đường hiếu sinh”! “Ức Trai tâm thượng quang khuê
tảo = Tấm lòng Ức Trai vằng vặc như sao khuê” (Lê Thánh Tông). Tuy nhiên “Nhà ái quốc vĩ đại bị dày vò ngay trong
chính tổ quốc mình!” (Emile Gaspardonne – nhà Đông phương học người
Pháp). Người như vậy thật hiếm cả trong lịch sử nhân loại. UNESCO tôn vinh
NGUYỄN TRÃI là Anh hùng giải phóng dân tộc và Danh nhân văn hoá. Cuộc
đời bi tráng của vĩ nhân còn để lại cảm xúc mạnh đến nhiều đời sau. Cái chết bi
thảm lay động đất trời: “Ôi công lao rực sáng cả trời mây / Mà oan ức vùi sâu
trong đất cỏ!” (Vũ Khiêu). Người thật như bông Hoa Bụt soi dưới bóng nước lung
linh thực hư hư thực, dung dị thanh cao:
Ánh nước hoa in một bóng hồng
Vẩn
nhơ chẳng bén bụi là lòng
Chiều
mai nở, chiều hôm rụng
Sự
lạ cho hay tuyệt sắc không.
(Nguyễn Trãi)
Ngôi sao Ức Trai vằng
vặc giữa bầu trời nước Việt. Sao Khuê, sao Học trò, sao Kim, sao Mai, sao Ban
chiều là một – là sao của trí tuệ và tình yêu. Ở đâu, lúc nào sao vẫn sáng, vẫn
đẹp, vẫn thơ và thân thiết ấm áp như ánh đèn khuya với người cầu học, là nỗi
nhớ nhung da diết của lòng chung thủy đợi chờ.
Bên ngôi sao lộng lẫy uy
nghi ấy có một ngôi sao càng nhìn càng tỏ, càng lung linh quyến rũ – chính là
hiện thân của giai nhân Nguyễn Thị Lộ “Chí cả tài cao: phi phàm kỳ nữ / Công
dung ngôn hạnh: bốn đức vẹn toàn” (Vũ Khiêu). Nữ nhân có một thân phận riêng
gắn bó đặc biệt với cuộc đời oanh liệt nổi chìm giữa sóng cả gió to của vĩ
nhân.
Thời gian dài thăm thẳm,
người đời chỉ biết danh Bà với mấy câu thơ đối đáp như một giai thoại của cặp
văn nhân bất xứng. Chưa biết chuyện ấy là hư, là thực? Cho dù thơ đối rất hay
và mặc cho người đời truyền tụng nhưng mấy ai dễ chấp nhận cô gái Tây hồ bán
chiếu lại thành tri kỷ–tri âm với bậc anh hùng hào kiệt tài danh như thế? Bởi
chính sử chép rằng vị vua trẻ mê mẩn mỹ nhân thêm với câu chuyện dân
gian “Rắn thần báo oán”, kết hợp lại thì dẫu có ai nghĩ hư nhiều hơn
thực mà vẫn gắn cái chết bi thương của lão đại công thần bởi lãnh nghiệp quả từ
cô hầu trẻ đẹp mà khỏa lấp đi tội ác của triều đình, làm lu mờ hình ảnh người
đàn bà đức hạnh tài hoa! Đời càng kính trọng, mến yêu, thương cảm một phận hồng
nhan bạc mệnh.
Qúa khứ càng xa để hậu
thế được nhìn lịch sử công tâm. Sự rối rắm triều chính sau thắng lợi chống giặc
ngoại xâm xưa nay không mấy lạ. Âu đó cũng là thói đời trần tục. Chỉ Lê Lợi mới
nhận ra tài của Nguyễn Trãi, biết dùng Nguyễn Trãi, định rõ công trạng của
Nguyễn Trãi và biết cương nhu với ông. Nhưng khi Lê Lợi không còn thì con người ấy với tầm
ấy, tâm ấy, thời thế ấy không dung nổi. Tất nhiên bậc đại nhân phải chết! Bày
ra tội của nữ thi nhân Nguyễn Thị Lộ để có cớ triệt hạ trung thần Nguyễn Trãi
bằng thượng hạ kế “giả Ngu diệt Quắc” hoặc là “tá đao sát nhân”
thiên hạ đều từng. Hai con người ấy đã say cùng nhau và đắm cùng nhau! Duy cái
chết của vĩ nhân thấu động trời xanh, người đời khôn nguôi xót thương Ông
mà cạn nước mắt khóc thương Bà, để lại mối chạnh lòng mãi cho hậu thế!
Và lịch sử lại
bất công khi chỉ giải oan chiêu tuyết một người – Nguyễn Trãi đã trong như nước
và trắng như tuyết! Nhưng Nguyễn Thị Lộ vẫn bị che khuất dưới lớp bụi ngày một
dày của sự lãng quên nếu không bởi lòng đố kỵ thâm căn mà những câu chuyện lịch
sử mơ hồ đã phủ lên bà! Nghĩ càng ai oán tiếc thương cùng phận nữ nhi mà Đoàn
Thị Điểm, Hồ Xuân Hương, Bà Huyện Thanh Quan danh thơm còn mãi với những bài
thơ trác tuyệt lưu lại
cho đời trong khi mọi bút tích của nhà giáo, nhà thơ Nguyễn Thị Lộ
đều tan biến ngay thành tro bụi từ cái án oan nghiệt ngã của triều đình!
Nếu đức hạnh bà không
sáng, chữ nghĩa không tài, sao được Nhà vua giao giữ chức “Lễ nghi học sỹ” –
dạy phép tắc lễ nghĩa cho các công nương, công tử, phi tần nơi hậu cung nghiêm
cẩn? “Lễ nghi học sỹ” ở lại nội cung theo ý chỉ của Vua. Những nghi vấn cứ đơm đặt
ra và thổi phồng lên bởi lũ tiểu nhân nhan nhản giữa triều đình lộn xộn.
Cặp thư giao bút theo
thể thơ Tứ lục truyền lại của Ông Bà lúc hai người Đông–Nam đôi ngả.
Trong thơ “Lễ nghi học sỹ” phu nhân phúc đáp “Hàn lâm thừa chỉ” phu quân bấy
giờ đã về ở ẩn tại Côn sơn, giãi tỏ lòng mình:
Thiếp đây:
Do âm dương biến hóa
Tự cha mẹ sinh thành
Học chữ Tam tòng, càng
học càng sáng
Nhớ điều Tứ đức, càng
nhớ càng vui
Nết tựa lá đào xum xuê
Đức như gót lân nhuần
nhị
Bỗng gặp chàng đó…
Ý đã hài hòa
Lòng càng gắn bó
Trỏ núi nào thề nào thốt
nguyện
cùng nhau đầu bạc trăm năm
Vạch sông làm chứng làm
từ
ước cùng
nhau sống lâu muôn tuổi
Chỉ xin chàng nên:
Lấy quân tử làm lòng
Lấy thánh hiền làm đạo…
Đọc kinh sử thông kim bác cổ
Lấy trung thứ suy ta ra người
Chớ nghĩ: Ai quên mối tình muộn màng
trăng
tuy khuyết mà lòng thiếp không khuyết
Chớ lo: Ai nhạt lời thề cố cựu
sông dù
vơi mà ý thiếp không vơi
Còn gì liệu đáng băn khoăn
Phải
chăng tự mình chuốc lấy?
Chỉ
riêng mong:
Xe thư
một mối
Văn
giáo cùng đường
Dù kín
mít như rồng ẩn vực sâu
Sẽ sáng
lại như đầu xuân nắng mới
Phép có
chính thì lẽ mới thuận
Nhà có
hòa thì việc mới thành.
Một bài thơ ký vợ gửi
cho chồng đầy bản lĩnh và nhân cách, đầy học thức mà nghĩa tình chan chứa, ý
thơ đĩnh đạc, lời thơ như gấm như hoa, đáng bậc thi tài, xứng ngôi mệnh phụ.
Hẳn Ức Trai vừa lòng, người đời kính phục.
Than ôi: “Đoạn trường theo mãi mệnh hồng nhan
/ Ưu hoạn vây quanh đời thức tự!” (Vũ Khiêu).
Nguyễn Trãi có công to
với đời và làm đẹp cho lịch sử Việt Nam thì ít ra Nguyễn Thị Lộ cũng có
công to với Nguyễn Trãi và làm đẹp cho Ông. Bà đã nếm mật nằm gai cùng chồng
qua những tháng năm gian khổ của cuộc kháng chiến trường kỳ loại trừ họa diệt
chủng từ quân Minh hung bạo. Bà đã cùng Ông lo phò vua giúp nước và cùng chồng
nhận cái chết oan khiên nghiệt ngã mà vẫn một lòng trung trinh tiết nghĩa. Lòng
nào có thể quên đi một nữ tài nhân như thế? Làm lễ giải oan chiêu tuyết cho Bà
dù có muộn vẫn là lấy đạo NGHĨA–NHÂN làm cốt lõi.
“Lễ nghi học sỹ” Nguyễn
Thị Lộ xứng đáng được tôn vinh như một Đức Bà trong những Đức Bà dày công đức
nhân dân ta vẫn tôn thờ.
Với những công trình tâm
huyết để đời là Đền thờ hai nhà giáo Nguyễn Trãi, Nguyễn Thị Lộ ở làng Khuyến
Lương, Q. Hoàng Mai, Hà Nội; Đền thờ tại quê hương nữ sỹ ở làng Hới chiếu, xã
Tân Lễ, huyện Hưng Hà tỉnh Thái Bình và ngày 20/12/2013 nhằm ngày Canh Thân
(18) tháng Giáp Tý (11) năm Quý Tỵ, ngay tại làng Đại Lai, huyện Gia Bình, tỉnh
Bắc Ninh là nơi xảy ra thảm án ngày 16 tháng 8 năm Nhâm Tuất (1442), “Hội
những người yêu kính Nguyễn Trãi–Nguyễn Thị Lộ” và thần dân bách tính
xứ đạo Đông tụ họp về đây – nơi “Dòng huyết lệ còn vương đất cỏ”, làm lễ khánh
thành Đền tưởng niệm Lệ Chi Viên, kết thúc việc hoàn thành bộ ba công trình
tưởng niệm hai vị danh nhân dầy tài năng công đức, được cháu con cả nước hằng
tâm hằng sản thành tâm công quả bày tỏ tấm lòng trắc ẩn vô biên và kính yêu sâu
sắc với đấng tiền nhân kiệt hiệt tài hoa.
“Trời Lệ Chi bát ngát
mây bay / Hồng hạc tinh thần muôn vạn thuở”. Nén nhang giãi tấm lòng thành,
thỉnh cầu Đức Ông, Đức Bà phò trợ cho nước non Đại Việt ta: xã tắc ngày càng
đổi mới, giang sơn ngày thêm rạng rỡ, khắp chợ cùng quê không có tiếng oán giận
than sầu, chữ nhân-nghĩa nhà nhà
nhuần thấm, nền thái bình vững chãi ngàn năm.
Cung thỉnh
Tuần báo Văn Nghệ TP. Hồ
Chí Minh
Mừng
Xuân Giáp Ngọ 2014