*Hôm nay, 2 ngày sau cái giấc mơ mà nữ thần báo cho
tôi biết máy bay không bị rơi do tai nan, trên http://www.vietnamplus.vn/ đưa tin:
Malaysia kết luận máy bay MH370 bị không tặc (Vietnam+ lúc : 15/03/14 11:13 ). Tin này hình như đúng đấy!
*Mỗi một ngày qua đi càng chứng tỏ giấc mơ mà nữ thần báo cho tôi biết càng đúng: không phải máy bay hỏng bị rơi! Cũng đã có một vài nhận định đúng từ một rừng thông tin. Y như vụ Thẩm mỹ Cát tường cũng đã có một ý kiến đúng! Các nhà chức trách của |
ĐÔNG LA
CẶP ĐÔI BẤT HẢO NGUYÊN VÀ
NGỌC
Quả
là có duyên tiền định, bút danh Nguyên Ngọc không chủ ý mà có mang thêm tên một
người thế hệ sau là Phạm Xuân Nguyên. Rồi như một cặp bài trùng, tất cả những
gì của “Ngọc” đều được “Nguyên” coi như ánh đuốc soi đường; “Ngọc” lăng xê ai
thì “Nguyên” hô ứng ca ngợi người đó; “Ngọc” tâm đắc điều gì thì “Nguyên” coi cái đó là “tư tưởng” của nhân
loại.
Trong
bài trước viết về chuyện Nguyên Ngọc đứng đầu BAN VẬN ĐỘNG ra TUYÊN BỐ VẬN ĐỘNG
THÀNH LẬP VĂN ĐOÀN ĐỘC LẬP VN, tôi cũng có nhắc đến Phạm Xuân Nguyên nhưng
chán “đếch muốn nói tới”. Nay ngẫm
lại hóa ra cái thằng “tiểu tốt” này
lại không “vô danh”, dù chẳng có tác
phẩm nào ra tấm ra món, chẳng có thành tựu gì, vậy mà lại là đương kim Chủ tịch
Hội Nhà Văn Hà Nội, hóa ra lại là người có máu mặt nhất trong nhóm. Tuổi tác của
Nguyên so với U90 Nguyên Ngọc thì vẫn còn “sức
dài vai rộng” chán. Vậy nhìn xa trông rộng thì chính Nguyên mới quan trọng
chứ Ngọc chỉ là người dọn đường!
Vậy
Nguyên là ai?
***
Cũng
như Nguyên Ngọc, tôi đã viết về Phạm Xuân Nguyên nhiều, nay có việc hệ trọng
thì chỉ cần tổng kết lại thôi.
Nguyên
là một đảng viên, một trưởng phòng của Viện Văn học, đương kim Chủ tịch Hội Nhà
Văn Thủ đô Hà Nội. Với dân thường thì như thế là rất to rồi! Một người ở trong
thể chế như vậy, hưởng danh, hưởng lợi, lại đứng trong đội ngũ tiên phong mà
khi được kết nạp phải đọc lời thề cống hiến đến giọt máu cuối cùng cho sự
nghiệp của Đảng, gần đây lại còn nhận huy hiệu 30 năm tuổi Đảng và 2 huy hiệu
chiến sĩ trong sạch nữa, vậy mà Phạm Xuân Nguyên lại có tên trong cái “Danh
Sách 72” đòi bỏ điều 4 trong Hiến Pháp hiến định quyền lãnh đạo của Đảng. Vậy
loài kỳ nhông phải mau mau suy tôn Phạm Xuân Nguyên là cụ thôi.
Nước
ta từ nền kinh tế đóng cửa, kế hoạch hóa chuyển sang thời kỳ mở cửa, thực hiện
kinh tế thị trường. Giống như chiếc xe đột nhiên tăng tốc, cơ chế kiểm soát
cũng như cái phanh đã không thay đổi kịp cho phù hợp, nên đã va quệt, gây ra
tai nạn lung tung. Đó chính là những tệ nạn trong xã hội ta tại những ngày hôm
nay. Có điều người ta thường quan tâm đến chuyện tham nhũng “lợi” mà không chú
ý đến chuyện tham nhũng “danh”. Nhưng chuyện phân định đúng sai, tốt xấu trong
lĩnh vực “đèn mờ tri thức” này lại không đơn giản. Vì vậy đã và đang có không
ít kẻ cơ hội ung dung thừa “nước đục thả câu”. Phải chăng vì thế Phạm Xuân
Nguyên chỉ tài “diễn” mà đã thành đạt và thành danh. Nhưng với tôi danh tiếng
của Nguyên chỉ là “ranh tiếng”, nghĩa là nổi tiếng ranh mãnh mà thôi!
***
Giờ
chúng ta xem thử “tài ranh” của nhân vật này?
Phạm
Xuân Nguyên có một trang cá nhân lấy tên là NGUYÊN ĐẦU BẠC với 2 câu “Bút Tre”
tự giới thiệu:
Viện Văn có một Phạm Xuân
Nguyên là cán bộ cử nhân phê bình.
Hai
câu ngông ngạo thể hiện sự coi khinh bằng cấp, học vị, học hàm mà coi trọng
thực tài. Có điều nếu Nguyên có bằng thấp mà tài cao thực thì rất đáng quý, vì
cái tài ấy không chỉ do học mà do thiên phú. Nhưng cũng không thể so với những
bậc kỳ tài được. Có người không cần học văn veo gì cả nhưng muốn viết gì thì
viết, còn viết được cả những điều mà đến GS văn cũng “đếch” viết được! Còn
Nguyên học Văn, làm ở Viện Văn, nhưng chỉ viết được ít bài phê bình lẻ, chẳng
có công trình, tác phẩm nào ra tấm, ra món, chẳng có thành tựu nào, thì khoe
bằng thấp, chẳng phải tự vạch áo cho thiên hạ xem lưng mình trình độ thấp thật sao!?
Nhưng
Nguyên không bao giờ thấy mình thấp cả. Bởi có một nghịch lý, muốn thấy mình
còn thấp kém cái gì thì người ta phải có trình độ cao cơ.
Trên
http://vtc.vn/, trong bài pham-xuan-nguyen-chuyen-kho-tin-nhung-co-that
có câu: “Nhà phê bình cần tri thức
và bản lĩnh, tôi có cả hai” – Nguyên tuyên bố “xanh rờn” và làm được đúng
như điều anh nói”. Đúng là “nổ” và tâng nhau “hay” thật!
Vậy
ta thử xem tri thức và bản lĩnh của Nguyên ra sao?
***
Còn
nhớ hồi Nguyễn Quang Thiều mới xuất hiện, làm thơ theo phong cách hiện đại,
nghĩa là có những điều còn khó đồng cảm với người thường, rất cần những nhà phê
bình văn học hiện đại như Nguyên chỉ ra những cái hay, những ẩn ý cao sâu.
Nhưng trong một bài Nguyên đã phán đại ý: ai
hiểu được tiếng hú thì sẽ hiểu được thơ Thiều. Tôi đã nói với một người bạn
thân nhất, nói vậy khác gì bảo Thiều là con thú. Ông bạn nổi cáu: “Đéo hiểu con cặc gì về thơ”! (Xin lỗi
các nhà thuần phong mỹ tục, tôi phải tôn trọng sự thật khách quan!).
Về
cuốn Nỗi buồn chiến tranh của Bảo
Ninh, Phạm Xuân Nguyên có một nhận định không chỉ dốt về văn mà còn rất mất
dậy, bố láo và là một kẻ đại vô ơn: “Những
người lính là những con người bị vất vào cuộc chiến, buộc phải bắn giết nhau”!
Bao
đồng đội là cha, anh, bạn bè tôi đã chiến đấu với kẻ địch, đã hy sinh thân mình
cho những ngày yên bình, hạnh phúc hôm nay đã bị một kẻ mang danh một cán bộ
nghiên cứu ở Viện Văn học là Phạm Xuân Nguyên nhận định như thế! Thằng mất dậy
này ăn lương nhà nước và hưởng danh nhà nước tạo cho đã đồng nhất những chiến
sĩ giải phóng với quân địch, đồng nhất cái thiện với cái ác thì nghiên cứu cái
gì?!
Phạm
Xuân Nguyên cũng ngu khi dựa vào sự đánh giá của đối phương. Đã từng là quân
thù thì làm sao họ có thể có nhận định khách quan được? Nguyên viết: “Dennis Mansker… khi đọc Nỗi buồn chiến
tranh… choáng váng và xúc động. Ông viết: "Đây là một bức tranh trung thực
và tàn nhẫn đến kinh ngạc về bi kịch của một người lính Bắc Việt bị tê liệt hết
nhân tính của mình sau mười năm tham chiến”.
Tôi
đã viết trong cuốn Bóng tối của ánh sáng:
“Sau chiến tranh, có thể có những chấn
thương thần kinh về bệnh học, còn chấn thương tinh thần mang tính ý thức hệ để
rồi tuyệt diệt niềm vui sống, như Bảo Ninh viết, chỉ là vô cùng hãn hữu. Bản
thân cựu lính chiến Bảo Ninh cũng còn rất khôn ngoan, chẳng có “tê liệt” cái
quái gì hết, không hiểu vì cái gì mà ông viết để cho người ngoài hiểu đồng đội
của mình “tê liệt hết nhân tính” như một lũ súc vật vậy?!”.
Nguyên
tiếp: “Đánh giá cao nhất Nỗi buồn chiến
tranh ở Mỹ có lẽ là ý kiến của Leif A. Torkelsen (Columbus , OH United States ) khi ông cho đây là
cuốn tiểu thuyết chiến tranh hay nhất thế kỷ XX. Torkelsen viết: "… đây là
một tác phẩm ngoại hạng… Cuốn sách tràn đầy những suy tư thấu suốt về Việt Nam cũng như về
tâm hồn con người”.
Cũng
nhìn theo quan điểm của quân địch, khi Nguyên Ngọc là Trưởng Ban sáng tác HNV
đã “chiến đấu” cho cuốn Nỗi buồn chiến
tranh thắng giải thưởng của Hội, đến nỗi sau đó Ban Chấp hành Hội phải xin
lỗi!
Tôi
cũng đã viết về chuyện này:
“Cái chuyện tôn vinh một tác phẩm giúp cho
người ngoài hiểu sai về dân tộc mình và viết không cần đúng sai để biện hộ cho
đối phương, buộc tôi phải đặt câu hỏi: Người ta làm vậy phải chăng vì ngóng đợi
một cái gì đó ngoài văn chương? Phạm Xuân Nguyên cho Nỗi buồn chiến tranh “được
giải thưởng là một thắng lợi của tư duy đổi mới trong văn học”. Có điều cái gọi
là “đổi mới” mà hai vị đã nói thực ra chỉ là một sự lộn ngược.
Nguyễn Huy Thiệp, Bảo Ninh và một số người tung hô, đã
lẻn được ra ngoài bằng ngõ tắt, đem đến thị trường tinh thần thế giới còn trắng
đen lẫn lộn những hàng hóa đặc biệt, sản phẩm của cuộc “đổi chác” chứ không
phải “đổi mới” văn chương, đã đổi những thứ vô giá thiêng liêng như niềm tự hào
dân tộc, sự chính nghĩa, cái thiện… lấy những cái có giá cụ thể hơn”.
***
Gần
đây, Phạm Xuân Nguyên không chỉ yếu kém và sai trái trong việc phê bình của
mình, mà còn coi nó là chuẩn mực để phê phán người khác. Khi ông Nguyễn Văn Lưu
phê phán Luận văn Thạc sĩ của Nhã Thuyên, Phạm Xuân Nguyên đã tặng cho ông Lưu
cái ác danh Phê bình chỉ điểm; rồi
nghênh ngang khoe: “đã được tôi nói lên
tại diễn đàn của hai cuộc họp quan trọng… do Hội đồng lý luận phê bình văn học
nghệ thuật trung ương và Hội Nhà văn Việt Nam tổ chức” có Chủ tịch nước
Trương Tấn Sang, Trưởng Ban Tuyên giáo Đinh Thế Huynh tham dự, ba ông Hồng
Vinh, Đào Duy Quát, Hữu Thỉnh chủ trì.
Tôi
đã viết:
“Trong luật pháp, thấy tội mà không tố cáo
cũng là phạm tội. Trang đầu blog của tôi cũng để ảnh Einstein với câu nói của
ông: “The world will not be destroyed by those who do evil, but by those who
watch them without doing anything” (Thế giới sẽ không bị phá hủy bởi những kẻ
làm điều ác, nhưng bởi những người thấy chúng mà không hành động gì cả”. Vì vậy
nếu ông Lưu cũng như bất kỳ ai “điểm mặt chỉ tên” đúng đều là những người có
trách nhiệm với xã hội, có nhân cách đáng quý trọng. Còn ông Lưu sai thì Nguyên
và những người bị ông Lưu “chỉ điểm” hoàn toàn có thể kiện ông Lưu. Nguyên và
những đối tượng thấy sai mà không kiện thì là những thằng hèn, còn không kiện
được mà phát biểu hùng hổ như Nguyên thì là một thằng lưu manh”;
“Phê bình một tác phẩm là phân tích hình thức
và nội dung một tác phẩm. Hình thức cũ, mới, đạt hiệu quả thẩm mỹ thế nào? Nội
dung sống động, phong phú, đúng sai, tốt xấu, cao thấp, nông sâu thế nào? Chỉ
thế thôi! Còn đọc mà không hiểu gì như Nguyên thì là một thằng ngu. Phạm Xuân
Nguyên không phân biệt được cái bẩn thỉu, cái thô tục, sự báng bổ lãnh tụ, sự
quấy rối, sự chống đối, sự làm loạn,… trong thơ Mở miệng; và không thấy Nhã
Thuyên sai như ông Lưu đã chỉ ra, coi loại thơ đó là “tài tình và hấp dẫn đến
thế… thì Nguyên đã lấy cách đọc mù chữ của mình để chê cách đọc mà Nguyên cho
là chưa “vỡ chữ” của ông Lưu!”
Tóm
lại lãnh đạo Viện Văn học cũng cần phải xem lại tài đức của “ông trưởng phòng
Văn học So sánh” Phạm Xuân Nguyên này.
***
Còn
về phần dịch?
Tôi
không biết Nguyên đã dịch gì, chỉ khi tìm hiểu để viết về khả năng tiếng Pháp
của TS hạng “iu” Nguyễn Thị Từ Huy mới biết, Nguyên đã dịch nhan đề tác phẩm L'identité của Milan Kundera là Bản nguyên. Theo Hoàng Long trên Tiền vệ: “Bản tiếng Trung dịch là “Thân phận” 身分. Bản tiếng Nhật do Nishinaga Yoshinari 西永良成 chuyển ngữ là “Cái
tôi thật sự” 本当の私”.
Còn
tôi? Tôi thấy trong tiếng Anh identity
dùng với card để chỉ thẻ căn
cước. Vì vậy theo tôi, nên dịch Tiểu thuyết L'identité là Bản ngã có
lẽ là phù hợp nhất với tiếng Việt. Còn bản
nguyên, trong triết học là khái niệm của Bản thể luận, như Nhất nguyên
luận và Nhị nguyên luận. Nhất
nguyên luận có Duy tâm, Duy vật.
Duy vật cho vật chất là bản
nguyên của thế giới, quyết định và sinh ra ý thức; ngược lại, Duy tâm cho ý thức là bản nguyên và sinh
ra vật chất. Còn Nhị nguyên luận coi
vật chất và ý thức là bản nguyên ngang nhau. Như vậy dịch như Phạm Xuân Nguyên
là dốt cả tiếng Pháp lẫn tiếng Việt và mù tịt triết học!
Trình
độ tiếng Pháp của Nguyên cũng thể hiện qua sự xưng tụng Nguyên Ngọc. Trên
Tuanvietnam, Nguyên từng viết trong bài Chính
ủy Nguyên Ngọc: “Các sách dịch này
dưới bút hiệu Nguyên Ngọc đều có chất lượng cao, có thể nói là bảo đảm được yêu
cầu "tín, đạt, nhã" của một bản dịch… Nguyên Ngọc nắm vững tiếng Pháp
và tiếng Việt”.
***
Về
tài dịch của Nguyên Ngọc ở bài trước tôi đã chỉ ra việc Nguyên Ngọc đã dịch sai
nhan đề cuốn Le Degré zéro de l'écriture
suivi de Nouveaux essais critiques của Roland Barthes là Độ không của lối viết. Và Nguyên Ngọc do
“đếch biết gì” nên đã ca ngợi hai tư
tưởng nghệ thuật ngược nhau của Barthes và Kundera. Với Barthes thì đề cao sự
dấn thân vì xã hội qua khái niệm “l'écriture”,
còn Kundera ngược lại lại đề cao “cái Tôi”
theo Hiện tượng học của Husserl,
nghĩa là không coi xã hội là “cái đinh”
gì!
Nguyên
Ngọc cũng dịch câu của Kundera la sagesse
de l’ambigui là sự hiền minh của tính
nước đôi. Nghe đúng là kêu choang choang nhưng thực tế rỗng tuếch. Sagesse nghĩa Việt là trí tuệ, Nguyên
Ngọc dịch là “sự hiền minh” thì không
hợp. Sự hiền minh nói về khả năng nhận thức của các nhà hiền triết, đó là
sự thấu suốt mang tính thiện đức vì trong cuộc sống có những sự thông thái mang
tính ác. L’ambigui theo từ điển là sự
mơ hồ. Mà sự mơ hồ thì hoàn toàn
không phải là nước đôi. Sự mơ hồ chỉ
cái chưa rõ ràng, còn nước đôi chỉ sự lưỡng lự giữa hai cái. Trong vật lý lượng
tử, bản chất nhị nguyên sóng hạt của
các hạt lượng tử cũng có thể gọi là
tính nước đôi. Câu trên Kundera muốn nói điều nhà viết tiểu thuyết phải
thấy được cái mà người thường không thấy, tức những gì còn mơ hồ. Vì vậy la sagesse de l’ambigui nên dịch là sự hiểu biết về những điều mơ hồ thì
đúng hơn.
Nhan
đề cuốn L'Insoutenable légèreté de l'être
cũng của Kundera, Nguyên Ngọc đã dịch là Nhẹ
bồng cái kiếp nhân sinh.
Trong
cuốn Nghệ thuật tiểu thuyết của Milan
Kundera có nói đến cái “sự nhẹ không thể
chịu nổi” (L'Insoutenable légèreté), đó là sự e ngại của Kundera về sự biến
mất cái tôi trong thế giới hiện đại. Nguyên Ngọc dịch là Nhẹ bồng xem ra cũng sai, bởi nó chỉ sự phiêu du nhẹ nhàng, ngược
với cái sự nhẹ không chịu nổi nói trên. Theo tôi để dịch thoát ý và Việt hóa
nên dịch là Nhẹ bẫng phận người. Bởi
nó chỉ số phận con người bị coi nhẹ như không có, rất sát với ý tứ của Kundera.
Như
vậy Phạm Xuân Nguyên cũng dốt nên mới khen Nguyên Ngọc là một dịch giả tài năng!
***
Không
chỉ là chuyện sai trái do trình độ mà hành động của Phạm Xuân Nguyên đã thành
hệ thống có chủ đích. Nguyên thường xuất hiện trên những trang báo có khuynh
hướng chống Việt Nam
(như BBC tiếng Việt chẳng hạn). Ở đâu Nguyên cũng có mặt, từ việc lớn là chống
lại chủ chương của Đảng và Nhà nước, tìm cách gỡ những nút thắt, giữ gìn mối
quan hệ láng giềng với Trung Quốc, Nguyên đã ở trên tuyến đầu những cuộc gây
rối, nhân danh lòng yêu nước biểu tình chống Trung Quốc;
đến việc ủng hộ những
người phạm pháp và có hành động có tính chất phạm pháp như Lê Công Định trước
đây, Phương Uyên gần đây, v.v… và Nhã Thuyên trong những ngày hôm nay.
(Cùng hội cùng thuyền: Chênh, Nguyên, Lập, Quân)
Trong
bài Từ
một bản luận văn viết về vụ Nhã Thuyên, Phạm Xuân Nguyên viết:
“…ta hãy xét sự việc dưới góc nhìn pháp luật.
Khoa Ngữ văn, ĐH Sư phạm Hà Nội là một cơ sở đào tạo sau ĐH có pháp quy.
…Do đó, khi có yêu cầu xét lại bản luận văn thì… Bộ
hoặc trường, hoặc khoa phải có quyết định thành lập một hội đồng chấm lại luận
văn,… Các ý kiến trên dư luận chỉ là thông tin bên ngoài, không thể coi là
chứng cứ khoa học, càng không thể coi là áp lực số đông làm ảnh hưởng, thậm chí
xuyên tạc bản chất khoa học của vấn đề”.
Một
người luôn to mồm đấu tranh cho dân chủ, nói như trên, Nguyên đã tự vả vào mồm
mình. Thứ nhất, không phải cứ cái gì theo “pháp quy” thì không sai. Và cái
chính là vấn đề của Nhã Thuyên không chỉ gói gọn trong Bộ Giáo dục, không chỉ
là sai lầm về học thuật mà còn liên quan đến lịch sử, đến lãnh tụ, đến chính
trị tư tưởng, đến văn hóa nghệ thuật, đến đạo đức và thuần phong mỹ tục. Vì thế
lỗi này không chỉ là lỗi của Nhã Thuyên và những người liên quan mà còn là lỗi
của cả Trường ĐH Sư Phạm HN và của cả Bộ Giáo dục nữa. Bộ, trường và các cá
nhân liên quan hoàn toàn có thể co cụm tìm cách chạy tội. Xin nhớ không phải cứ
cỡ cấp Bộ thì không thể sai! Trên diễn đàn quốc hội, bao vị bộ trưởng từng nhận
sai, hứa, rồi lại sai tiếp. Vì vậy, việc Nguyên cho sự phê phán của những nhà
văn, nhà phê bình tên tuổi ở một hội nghị về phê bình của Hội Nhà Văn VN, trên
các báo Nhân Dân, Quân đội Nhân dân, Văn
nghệ, Văn nghệ TPHCM, v.v… chỉ là “thông
tin bên ngoài”, là “xuyên tạc”,
để làm “áp lực số đông” là những lý
lẽ bậy bạ, dốt nát!
Nguyên
tiếp: “Không ai có tội trước khi bị tòa
kết tội. Nguyên lý cơ bản đó áp dụng trong trường hợp này là: bản luận văn Vị
trí của kẻ bên lề: thực hành thơ của nhóm Mở Miệng từ góc nhìn văn hóa và tác
giả của nó, người hướng dẫn làm nó và hội đồng chấm nó chưa thể bị quy kết tội
phạm gì khi chưa có một đánh giá khách quan, khoa học từ một hội đồng thẩm định
bao gồm các chuyên gia của ngành”.
Ở
đây, Nguyên lại quá dốt, không hiểu pháp luật là gì. Ông hiệu trưởng hoàn toàn
có quyền và chịu trách nhiệm về việc cách chức cán bộ thuộc quyền do sai phạm
và dốt nát; chấm dứt hợp đồng lao động do vi phạm, do đạo đức, do trình độ.
Những người bị xử lý hoàn toàn có quyền kiện nếu tự tin mình đúng. Còn làm lãnh
đạo mà thấy những sai phạm hiển nhiên không xử lý thì chính mình cũng bị sai
phạm.
Còn
chuyện “Không ai có tội trước khi bị tòa kết tội” là chuyện của những người bị
tình nghi phạm pháp, đang bị tạm giam chờ điều tra, xét xử.
Một
kẻ dốt, cơ hội như Nguyên lại lem lém nói về “khoa học”, “tinh tường”,
“tử tế” như thế này đây:
“Bởi vì đây là một đề tài khoa học, một luận
văn khoa học nên chỉ chịu sự giám định về mặt khoa học. Nhất là khoa học văn
học đòi hỏi rất lớn sự tinh tường và tử tế”.
Không
nên tùy tiện dùng chữ khoa học cao quý để chỉ những thứ rác rưởi tri thức và
những quan điểm bệnh hoạn. Ngay cái tên luận văn: Vị trí của kẻ bên lề: Thực
hành thơ của nhóm Mở Miệng từ góc nhìn văn hóa là đã dốt rồi. Chỉ có thể viết là
“sáng tác thơ”, còn “thực hành” nghĩa là làm theo một cái gì
có sẵn, “thực hành thơ” là cái gì?
***
Trong
phạm vi lĩnh vực bài viết nói đến, Nguyên Ngọc có thể coi là “Vua”, Phạm Xuân
Nguyên là “thái tử”. Trước khi “hưu” làm thái thượng hoàng, Nguyên Ngọc lập ra
một Hội Văn riêng để làm của thừa kế cho Nguyên.
Nhưng
nếu ai hiểu đức và tài của họ qua bài viết này của tôi thì liệu có dũng cảm gia
nhập cái Hội của Ngọc và Nguyên hay không?
15-3-2014
ĐÔNG
LA