Thứ Bảy, 15 tháng 3, 2014

TIẾP VỀ VỤ "VĂN ĐOÀN ĐỘC LẬP": CẶP ĐÔI BẤT HẢO NGUYÊN VÀ NGỌC



*Hôm nay, 2 ngày sau cái giấc mơ mà nữ thần báo cho tôi biết máy bay không bị rơi do tai nan, trên  http://www.vietnamplus.vn/ đưa tin: Malaysia kết luận máy bay MH370 bị không tặc (Vietnam+ lúc : 15/03/14 11:13 ). Tin này hình như đúng đấy!
   
*Mỗi một ngày qua đi càng chứng tỏ giấc mơ mà nữ thần báo cho tôi biết càng đúng: không phải máy bay hỏng bị rơi! Cũng đã có một vài nhận định đúng từ một rừng thông tin. Y như vụ Thẩm mỹ Cát tường cũng đã có một ý kiến đúng! Các nhà chức trách của Malaysia và các nước đang tích cực tìm kiếm cần chú ý đến hiện tượng tâm linh, giấc mơ của tôi, kẻo tốn tiền, phí công và … thất bại. Báo Văn Nghệ TPHCM lại đăng bài về Ucraina của tôi.
 Còn hôm nay, tôi đăng cái bài này: 
ĐÔNG LA
CẶP ĐÔI BẤT HẢO NGUYÊN VÀ NGỌC

Quả là có duyên tiền định, bút danh Nguyên Ngọc không chủ ý mà có mang thêm tên một người thế hệ sau là Phạm Xuân Nguyên. Rồi như một cặp bài trùng, tất cả những gì của “Ngọc” đều được “Nguyên” coi như ánh đuốc soi đường; “Ngọc” lăng xê ai thì “Nguyên” hô ứng ca ngợi người đó; “Ngọc” tâm đắc điều gì thì “Nguyên” coi cái đó là “tư tưởng” của nhân loại.
Trong bài trước viết về chuyện Nguyên Ngọc đứng đầu BAN VẬN ĐỘNG ra TUYÊN BỐ VẬN ĐỘNG THÀNH LẬP VĂN ĐOÀN ĐỘC LẬP VN, tôi cũng có nhắc đến Phạm Xuân Nguyên nhưng chán “đếch muốn nói tới”. Nay ngẫm lại hóa ra cái thằng “tiểu tốt” này lại không “vô danh”, dù chẳng có tác phẩm nào ra tấm ra món, chẳng có thành tựu gì, vậy mà lại là đương kim Chủ tịch Hội Nhà Văn Hà Nội, hóa ra lại là người có máu mặt nhất trong nhóm. Tuổi tác của Nguyên so với U90 Nguyên Ngọc thì vẫn còn “sức dài vai rộng” chán. Vậy nhìn xa trông rộng thì chính Nguyên mới quan trọng chứ Ngọc chỉ là người dọn đường!
Vậy Nguyên là ai?
***
Cũng như Nguyên Ngọc, tôi đã viết về Phạm Xuân Nguyên nhiều, nay có việc hệ trọng thì chỉ cần tổng kết lại thôi.
Nguyên là một đảng viên, một trưởng phòng của Viện Văn học, đương kim Chủ tịch Hội Nhà Văn Thủ đô Hà Nội. Với dân thường thì như thế là rất to rồi! Một người ở trong thể chế như vậy, hưởng danh, hưởng lợi, lại đứng trong đội ngũ tiên phong mà khi được kết nạp phải đọc lời thề cống hiến đến giọt máu cuối cùng cho sự nghiệp của Đảng, gần đây lại còn nhận huy hiệu 30 năm tuổi Đảng và 2 huy hiệu chiến sĩ trong sạch nữa, vậy mà Phạm Xuân Nguyên lại có tên trong cái “Danh Sách 72” đòi bỏ điều 4 trong Hiến Pháp hiến định quyền lãnh đạo của Đảng. Vậy loài kỳ nhông phải mau mau suy tôn Phạm Xuân Nguyên là cụ thôi.
Nước ta từ nền kinh tế đóng cửa, kế hoạch hóa chuyển sang thời kỳ mở cửa, thực hiện kinh tế thị trường. Giống như chiếc xe đột nhiên tăng tốc, cơ chế kiểm soát cũng như cái phanh đã không thay đổi kịp cho phù hợp, nên đã va quệt, gây ra tai nạn lung tung. Đó chính là những tệ nạn trong xã hội ta tại những ngày hôm nay. Có điều người ta thường quan tâm đến chuyện tham nhũng “lợi” mà không chú ý đến chuyện tham nhũng “danh”. Nhưng chuyện phân định đúng sai, tốt xấu trong lĩnh vực “đèn mờ tri thức” này lại không đơn giản. Vì vậy đã và đang có không ít kẻ cơ hội ung dung thừa “nước đục thả câu”. Phải chăng vì thế Phạm Xuân Nguyên chỉ tài “diễn” mà đã thành đạt và thành danh. Nhưng với tôi danh tiếng của Nguyên chỉ là “ranh tiếng”, nghĩa là nổi tiếng ranh mãnh mà thôi!
***
Giờ chúng ta xem thử “tài ranh” của nhân vật này?
Phạm Xuân Nguyên có một trang cá nhân lấy tên là NGUYÊN ĐẦU BẠC với 2 câu “Bút Tre” tự giới thiệu:
Viện Văn có một Phạm Xuân
Nguyên là cán bộ cử nhân phê bình.
Hai câu ngông ngạo thể hiện sự coi khinh bằng cấp, học vị, học hàm mà coi trọng thực tài. Có điều nếu Nguyên có bằng thấp mà tài cao thực thì rất đáng quý, vì cái tài ấy không chỉ do học mà do thiên phú. Nhưng cũng không thể so với những bậc kỳ tài được. Có người không cần học văn veo gì cả nhưng muốn viết gì thì viết, còn viết được cả những điều mà đến GS văn cũng “đếch” viết được! Còn Nguyên học Văn, làm ở Viện Văn, nhưng chỉ viết được ít bài phê bình lẻ, chẳng có công trình, tác phẩm nào ra tấm, ra món, chẳng có thành tựu nào, thì khoe bằng thấp, chẳng phải tự vạch áo cho thiên hạ xem lưng mình trình độ thấp thật sao!?
Nhưng Nguyên không bao giờ thấy mình thấp cả. Bởi có một nghịch lý, muốn thấy mình còn thấp kém cái gì thì người ta phải có trình độ cao cơ.
Trên  http://vtc.vn/, trong bài pham-xuan-nguyen-chuyen-kho-tin-nhung-co-that có câu:  “Nhà phê bình cần tri thức và bản lĩnh, tôi có cả hai” –  Nguyên tuyên bố “xanh rờn” và làm được đúng như điều anh nói”. Đúng là “nổ” và tâng nhau “hay” thật!
Vậy ta thử xem tri thức và bản lĩnh của Nguyên ra sao?
***
Còn nhớ hồi Nguyễn Quang Thiều mới xuất hiện, làm thơ theo phong cách hiện đại, nghĩa là có những điều còn khó đồng cảm với người thường, rất cần những nhà phê bình văn học hiện đại như Nguyên chỉ ra những cái hay, những ẩn ý cao sâu. Nhưng trong một bài Nguyên đã phán đại ý: ai hiểu được tiếng hú thì sẽ hiểu được thơ Thiều. Tôi đã nói với một người bạn thân nhất, nói vậy khác gì bảo Thiều là con thú. Ông bạn nổi cáu: “Đéo hiểu con cặc gì về thơ”! (Xin lỗi các nhà thuần phong mỹ tục, tôi phải tôn trọng sự thật khách quan!).
Về cuốn Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh, Phạm Xuân Nguyên có một nhận định không chỉ dốt về văn mà còn rất mất dậy, bố láo và là một kẻ đại vô ơn: “Những người lính là những con người bị vất vào cuộc chiến, buộc phải bắn giết nhau”!
Bao đồng đội là cha, anh, bạn bè tôi đã chiến đấu với kẻ địch, đã hy sinh thân mình cho những ngày yên bình, hạnh phúc hôm nay đã bị một kẻ mang danh một cán bộ nghiên cứu ở Viện Văn học là Phạm Xuân Nguyên nhận định như thế! Thằng mất dậy này ăn lương nhà nước và hưởng danh nhà nước tạo cho đã đồng nhất những chiến sĩ giải phóng với quân địch, đồng nhất cái thiện với cái ác thì nghiên cứu cái gì?!
Phạm Xuân Nguyên cũng ngu khi dựa vào sự đánh giá của đối phương. Đã từng là quân thù thì làm sao họ có thể có nhận định khách quan được? Nguyên viết: “Dennis Mansker… khi đọc Nỗi buồn chiến tranh… choáng váng và xúc động. Ông viết: "Đây là một bức tranh trung thực và tàn nhẫn đến kinh ngạc về bi kịch của một người lính Bắc Việt bị tê liệt hết nhân tính của mình sau mười năm tham chiến”.
Tôi đã viết trong cuốn Bóng tối của ánh sáng: “Sau chiến tranh, có thể có những chấn thương thần kinh về bệnh học, còn chấn thương tinh thần mang tính ý thức hệ để rồi tuyệt diệt niềm vui sống, như Bảo Ninh viết, chỉ là vô cùng hãn hữu. Bản thân cựu lính chiến Bảo Ninh cũng còn rất khôn ngoan, chẳng có “tê liệt” cái quái gì hết, không hiểu vì cái gì mà ông viết để cho người ngoài hiểu đồng đội của mình “tê liệt hết nhân tính” như một lũ súc vật vậy?!”.
Nguyên tiếp: “Đánh giá cao nhất Nỗi buồn chiến tranh ở Mỹ có lẽ là ý kiến của Leif A. Torkelsen (Columbus, OH United States) khi ông cho đây là cuốn tiểu thuyết chiến tranh hay nhất thế kỷ XX. Torkelsen viết: "… đây là một tác phẩm ngoại hạng… Cuốn sách tràn đầy những suy tư thấu suốt về Việt Nam cũng như về tâm hồn con người”.
Cũng nhìn theo quan điểm của quân địch, khi Nguyên Ngọc là Trưởng Ban sáng tác HNV đã “chiến đấu” cho cuốn Nỗi buồn chiến tranh thắng giải thưởng của Hội, đến nỗi sau đó Ban Chấp hành Hội phải xin lỗi!
Tôi cũng đã viết về chuyện này:
Cái chuyện tôn vinh một tác phẩm giúp cho người ngoài hiểu sai về dân tộc mình và viết không cần đúng sai để biện hộ cho đối phương, buộc tôi phải đặt câu hỏi: Người ta làm vậy phải chăng vì ngóng đợi một cái gì đó ngoài văn chương? Phạm Xuân Nguyên cho Nỗi buồn chiến tranh “được giải thưởng là một thắng lợi của tư duy đổi mới trong văn học”. Có điều cái gọi là “đổi mới” mà hai vị đã nói thực ra chỉ là một sự lộn ngược.
Nguyễn Huy Thiệp, Bảo Ninh và một số người tung hô, đã lẻn được ra ngoài bằng ngõ tắt, đem đến thị trường tinh thần thế giới còn trắng đen lẫn lộn những hàng hóa đặc biệt, sản phẩm của cuộc “đổi chác” chứ không phải “đổi mới” văn chương, đã đổi những thứ vô giá thiêng liêng như niềm tự hào dân tộc, sự chính nghĩa, cái thiện… lấy những cái có giá cụ thể hơn”.
***
Gần đây, Phạm Xuân Nguyên không chỉ yếu kém và sai trái trong việc phê bình của mình, mà còn coi nó là chuẩn mực để phê phán người khác. Khi ông Nguyễn Văn Lưu phê phán Luận văn Thạc sĩ của Nhã Thuyên, Phạm Xuân Nguyên đã tặng cho ông Lưu cái ác danh Phê bình chỉ điểm; rồi nghênh ngang khoe: “đã được tôi nói lên tại diễn đàn của hai cuộc họp quan trọng… do Hội đồng lý luận phê bình văn học nghệ thuật trung ương và Hội Nhà văn Việt Nam tổ chức” có Chủ tịch nước Trương Tấn Sang, Trưởng Ban Tuyên giáo Đinh Thế Huynh tham dự, ba ông Hồng Vinh, Đào Duy Quát, Hữu Thỉnh chủ trì.
Tôi đã viết:
Trong luật pháp, thấy tội mà không tố cáo cũng là phạm tội. Trang đầu blog của tôi cũng để ảnh Einstein với câu nói của ông: “The world will not be destroyed by those who do evil, but by those who watch them without doing anything” (Thế giới sẽ không bị phá hủy bởi những kẻ làm điều ác, nhưng bởi những người thấy chúng mà không hành động gì cả”. Vì vậy nếu ông Lưu cũng như bất kỳ ai “điểm mặt chỉ tên” đúng đều là những người có trách nhiệm với xã hội, có nhân cách đáng quý trọng. Còn ông Lưu sai thì Nguyên và những người bị ông Lưu “chỉ điểm” hoàn toàn có thể kiện ông Lưu. Nguyên và những đối tượng thấy sai mà không kiện thì là những thằng hèn, còn không kiện được mà phát biểu hùng hổ như Nguyên thì là một thằng lưu manh”;
Phê bình một tác phẩm là phân tích hình thức và nội dung một tác phẩm. Hình thức cũ, mới, đạt hiệu quả thẩm mỹ thế nào? Nội dung sống động, phong phú, đúng sai, tốt xấu, cao thấp, nông sâu thế nào? Chỉ thế thôi! Còn đọc mà không hiểu gì như Nguyên thì là một thằng ngu. Phạm Xuân Nguyên không phân biệt được cái bẩn thỉu, cái thô tục, sự báng bổ lãnh tụ, sự quấy rối, sự chống đối, sự làm loạn,… trong thơ Mở miệng; và không thấy Nhã Thuyên sai như ông Lưu đã chỉ ra, coi loại thơ đó là “tài tình và hấp dẫn đến thế… thì Nguyên đã lấy cách đọc mù chữ của mình để chê cách đọc mà Nguyên cho là chưa “vỡ chữ” của ông Lưu!”
Tóm lại lãnh đạo Viện Văn học cũng cần phải xem lại tài đức của “ông trưởng phòng Văn học So sánh” Phạm Xuân Nguyên này.
***
Còn về phần dịch?
Tôi không biết Nguyên đã dịch gì, chỉ khi tìm hiểu để viết về khả năng tiếng Pháp của TS hạng “iu” Nguyễn Thị Từ Huy mới biết, Nguyên đã dịch nhan đề tác phẩm L'identité của Milan Kundera là Bản nguyên. Theo Hoàng Long trên Tiền vệ: “Bản tiếng Trung dịch là “Thân phận” 身分. Bản tiếng Nhật do Nishinaga Yoshinari 西永良成 chuyển ngữ là “Cái tôi thật sự” 本当の私”.
Còn tôi? Tôi thấy trong tiếng Anh identity dùng với card để chỉ thẻ căn cước. Vì vậy theo tôi, nên dịch Tiểu thuyết L'identitéBản ngã có lẽ là phù hợp nhất với tiếng Việt. Còn bản nguyên, trong triết học là khái niệm của Bản thể luận, như Nhất nguyên luậnNhị nguyên luận. Nhất nguyên luận có Duy tâm, Duy vậtDuy vật cho vật chất là bản nguyên của thế giới, quyết định và sinh ra ý thức; ngược lại, Duy tâm cho ý thức là bản nguyên và sinh ra vật chất. Còn Nhị nguyên luận coi vật chất và ý thức là bản nguyên ngang nhau. Như vậy dịch như Phạm Xuân Nguyên là dốt cả tiếng Pháp lẫn tiếng Việt và mù tịt triết học!
Trình độ tiếng Pháp của Nguyên cũng thể hiện qua sự xưng tụng Nguyên Ngọc. Trên  Tuanvietnam, Nguyên từng viết trong bài Chính ủy Nguyên Ngọc: “Các sách dịch này dưới bút hiệu Nguyên Ngọc đều có chất lượng cao, có thể nói là bảo đảm được yêu cầu "tín, đạt, nhã" của một bản dịch… Nguyên Ngọc nắm vững tiếng Pháp và tiếng Việt”.
***
Về tài dịch của Nguyên Ngọc ở bài trước tôi đã chỉ ra việc Nguyên Ngọc đã dịch sai nhan đề cuốn Le Degré zéro de l'écriture suivi de Nouveaux essais critiques của Roland Barthes là Độ không của lối viết. Và Nguyên Ngọc do “đếch biết gì” nên đã ca ngợi hai tư tưởng nghệ thuật ngược nhau của Barthes và Kundera. Với Barthes thì đề cao sự dấn thân vì xã hội qua khái niệm “l'écriture”, còn Kundera ngược lại lại đề cao “cái Tôi” theo Hiện tượng học của Husserl, nghĩa là không coi xã hội là “cái đinh” gì!
Nguyên Ngọc cũng dịch câu của Kundera la sagesse de l’ambigui là sự hiền minh của tính nước đôi. Nghe đúng là kêu choang choang nhưng thực tế rỗng tuếch. Sagesse nghĩa Việt là trí tuệ, Nguyên Ngọc dịch là “sự hiền minh” thì không hợp. Sự hiền minh nói về khả năng nhận thức của các nhà  hiền triết, đó là sự thấu suốt mang tính thiện đức vì trong cuộc sống có những sự thông thái mang tính ác. L’ambigui theo từ điển là sự mơ hồ. Mà sự mơ hồ thì hoàn toàn không phải là nước đôi. Sự mơ hồ chỉ cái chưa rõ ràng, còn nước đôi chỉ sự lưỡng lự giữa hai cái. Trong vật lý lượng tử, bản chất nhị nguyên sóng hạt của các hạt lượng tử cũng có thể gọi là tính nước đôi. Câu trên Kundera muốn nói điều nhà viết tiểu thuyết phải thấy được cái mà người thường không thấy, tức những gì còn mơ hồ. Vì vậy la sagesse de l’ambigui nên dịch là sự hiểu biết về những điều mơ hồ thì đúng hơn.
Nhan đề cuốn L'Insoutenable légèreté de l'être cũng của Kundera, Nguyên Ngọc đã dịch là Nhẹ bồng cái kiếp nhân sinh.
Trong cuốn Nghệ thuật tiểu thuyết của Milan Kundera có nói đến cái “sự nhẹ không thể chịu nổi” (L'Insoutenable légèreté), đó là sự e ngại của Kundera về sự biến mất cái tôi trong thế giới hiện đại. Nguyên Ngọc dịch là Nhẹ bồng xem ra cũng sai, bởi nó chỉ sự phiêu du nhẹ nhàng, ngược với cái sự nhẹ không chịu nổi nói trên. Theo tôi để dịch thoát ý và Việt hóa nên dịch là Nhẹ bẫng phận người. Bởi nó chỉ số phận con người bị coi nhẹ như không có, rất sát với ý tứ của Kundera.
Như vậy Phạm Xuân Nguyên cũng dốt nên mới khen Nguyên Ngọc là một dịch giả tài năng!
***
Không chỉ là chuyện sai trái do trình độ mà hành động của Phạm Xuân Nguyên đã thành hệ thống có chủ đích. Nguyên thường xuất hiện trên những trang báo có khuynh hướng chống Việt Nam (như BBC tiếng Việt chẳng hạn). Ở đâu Nguyên cũng có mặt, từ việc lớn là chống lại chủ chương của Đảng và Nhà nước, tìm cách gỡ những nút thắt, giữ gìn mối quan hệ láng giềng với Trung Quốc, Nguyên đã ở trên tuyến đầu những cuộc gây rối, nhân danh lòng yêu nước biểu tình chống Trung Quốc; 
đến việc ủng hộ những người phạm pháp và có hành động có tính chất phạm pháp như Lê Công Định trước đây, Phương Uyên gần đây, v.v… và Nhã Thuyên trong những ngày hôm nay.
(Cùng hội cùng thuyềnChênh, Nguyên, Lập, Quân)
Trong bài Từ một bản luận văn viết về vụ Nhã Thuyên, Phạm Xuân Nguyên viết:
“…ta hãy xét sự việc dưới góc nhìn pháp luật. Khoa Ngữ văn, ĐH Sư phạm Hà Nội là một cơ sở đào tạo sau ĐH có pháp quy.
…Do đó, khi có yêu cầu xét lại bản luận văn thì… Bộ hoặc trường, hoặc khoa phải có quyết định thành lập một hội đồng chấm lại luận văn,… Các ý kiến trên dư luận chỉ là thông tin bên ngoài, không thể coi là chứng cứ khoa học, càng không thể coi là áp lực số đông làm ảnh hưởng, thậm chí xuyên tạc bản chất khoa học của vấn đề”.
Một người luôn to mồm đấu tranh cho dân chủ, nói như trên, Nguyên đã tự vả vào mồm mình. Thứ nhất, không phải cứ cái gì theo “pháp quy” thì không sai. Và cái chính là vấn đề của Nhã Thuyên không chỉ gói gọn trong Bộ Giáo dục, không chỉ là sai lầm về học thuật mà còn liên quan đến lịch sử, đến lãnh tụ, đến chính trị tư tưởng, đến văn hóa nghệ thuật, đến đạo đức và thuần phong mỹ tục. Vì thế lỗi này không chỉ là lỗi của Nhã Thuyên và những người liên quan mà còn là lỗi của cả Trường ĐH Sư Phạm HN và của cả Bộ Giáo dục nữa. Bộ, trường và các cá nhân liên quan hoàn toàn có thể co cụm tìm cách chạy tội. Xin nhớ không phải cứ cỡ cấp Bộ thì không thể sai! Trên diễn đàn quốc hội, bao vị bộ trưởng từng nhận sai, hứa, rồi lại sai tiếp. Vì vậy, việc Nguyên cho sự phê phán của những nhà văn, nhà phê bình tên tuổi ở một hội nghị về phê bình của Hội Nhà Văn VN, trên các báo Nhân Dân, Quân đội Nhân dân, Văn nghệ, Văn nghệ TPHCM, v.v… chỉ là “thông tin bên ngoài”, là “xuyên tạc”, để làm “áp lực số đông” là những lý lẽ bậy bạ, dốt nát!
Nguyên tiếp: “Không ai có tội trước khi bị tòa kết tội. Nguyên lý cơ bản đó áp dụng trong trường hợp này là: bản luận văn Vị trí của kẻ bên lề: thực hành thơ của nhóm Mở Miệng từ góc nhìn văn hóa và tác giả của nó, người hướng dẫn làm nó và hội đồng chấm nó chưa thể bị quy kết tội phạm gì khi chưa có một đánh giá khách quan, khoa học từ một hội đồng thẩm định bao gồm các chuyên gia của ngành”.
Ở đây, Nguyên lại quá dốt, không hiểu pháp luật là gì. Ông hiệu trưởng hoàn toàn có quyền và chịu trách nhiệm về việc cách chức cán bộ thuộc quyền do sai phạm và dốt nát; chấm dứt hợp đồng lao động do vi phạm, do đạo đức, do trình độ. Những người bị xử lý hoàn toàn có quyền kiện nếu tự tin mình đúng. Còn làm lãnh đạo mà thấy những sai phạm hiển nhiên không xử lý thì chính mình cũng bị sai phạm.
Còn chuyện “Không ai có tội trước khi bị tòa kết tội” là chuyện của những người bị tình nghi phạm pháp, đang bị tạm giam chờ điều tra, xét xử.
Một kẻ dốt, cơ hội như Nguyên lại lem lém nói về “khoa học”, “tinh tường”, “tử tế” như thế này đây:
Bởi vì đây là một đề tài khoa học, một luận văn khoa học nên chỉ chịu sự giám định về mặt khoa học. Nhất là khoa học văn học đòi hỏi rất lớn sự tinh tường và tử tế”.
Không nên tùy tiện dùng chữ khoa học cao quý để chỉ những thứ rác rưởi tri thức và những quan điểm bệnh hoạn. Ngay cái tên luận văn: Vị trí của kẻ bên lề: Thực hành thơ của nhóm Mở Miệng từ góc nhìn văn hóa là đã dốt rồi. Chỉ có thể viết là “sáng tác thơ”, còn “thực hành” nghĩa là làm theo một cái gì có sẵn, “thực hành thơ” là cái gì?
***
Trong phạm vi lĩnh vực bài viết nói đến, Nguyên Ngọc có thể coi là “Vua”, Phạm Xuân Nguyên là “thái tử”. Trước khi “hưu” làm thái thượng hoàng, Nguyên Ngọc lập ra một Hội Văn riêng để làm của thừa kế cho Nguyên.
Nhưng nếu ai hiểu đức và tài của họ qua bài viết này của tôi thì liệu có dũng cảm gia nhập cái Hội của Ngọc và Nguyên hay không?
15-3-2014

ĐÔNG LA