Bài này chính là bài mà GS Trần Đình Sử bảo là "mù tịt" khi đọc. Bài này tôi viết khi Lê Đạt còn sống, đã đăng một phần trên báo Văn nghệ (hội Nhà Văn VN). Hôm nay tôi đăng lại. Xin mời những "nhà khoa học" như Đoàn Hương vào đọc.
8-12-2017
ĐÔNG LA
|
THƠ VÀ VẬT LÝ
(TRAO ĐỔI VỚI NHÀ THƠ LÊ ĐẠT)
(Lê Đạt ngồi bên tay phải Bác
Hồ)
Lê Đạt là một tác giả lão thành, nhưng
tinh thần ông lại rất trẻ trung. Ông luôn khao khát đổi mới thơ ca dựa trên cơ
sở những tri thức cao nhất mà trí tuệ nhân loại đã đạt đến. Những bài viết rất
nhỏ của ông luôn nhắc đến những thành tựu rất lớn của khoa học như thuyết Tương đối, cơ học Lượng tử, nguyên lý
Bất định, nguyên lý Bổ sung... Chúng chính là những thành quả chủ yếu của
vật lý hiện đại, cái xương sống của nhận thức, cái xa lộ tri thức mà từ đó sẽ
lan tỏa ra các đại lộ, mọi con đường, mọi ngõ ngách làm nên nền văn minh. Trong
khi đó, nhiều tác giả trẻ vẫn quan niệm về cái mới của thơ với những tiêu chí
vụn vặt về hình thức như thơ có vần hay
không, câu thơ ngắn hay dài, viết cái tôi hay cái ta, viết rõ nghĩa hay mù mờ,
sex hay không sex, thô tục hay không thô tục...
Dựa trên cơ sở những khám phá của khoa
học, đặc biệt là những phát minh của vật lý lý thuyết, loài người đã phải điều
chỉnh lại nhiều nhận thức lầm lẫn về triết học và các ngành Khoa học Xã hội
khác, và cả trong tôn giáo; đặc biệt, trong sự sáng tạo nghệ thuật, những nhà
siêu thực là những người đã đi tiên phong khi dựa trên những khám phá về vô thức, trực giác, thuyết tương đối, cơ học
lượng tử... để đưa ra một quan niệm sáng tác mới, cho có một hiện thực cao
siêu, một hiện thực đích thực mà nghệ thuật cần phải thể hiện, đó chính là siêu thực. Ở Việt Nam, Lê Đạt là một
trong số rất ít người nhiệt thành truyền bá cái tinh thần sáng tạo nghệ thuật
dựa trên cơ sở khoa học ấy, ông viết: “Nhà
nghệ thuật thiếu lý tính chỉ là một nghệ sĩ thứ phẩm mắc bệnh vĩ đại cũng cần
chữa trị hoặc nên đổi nghề (Tạp chí
Tia sáng xuân 2002, tr.25). Thế nhưng, có điều rắc rối ở đây là, để hiểu
cho đúng được những tri thức cao siêu của vật lý lý thuyết lại không đơn giản,
nó khó khăn ngay cả với những nhà vật lý nếu không theo chuyên ngành này. Ngay
đến S. Hawking, nhà bác học tật nguyền người Anh, hiện đang ở trên tuyến đầu
của khoa học, cũng phải viết rằng, để hiểu thấu được những lý thuyết vật lý
mới, bạn phải là một chuyên gia, mà dầu có là một chuyên gia đi nữa cũng chỉ hy
vọng nắm bắt được một phần mà thôi. Riêng người viết bài này tuy học Hóa, nhưng
khoa học là một thể thống nhất, hơn nữa lại từng làm việc tại các viện và trung
tâm nghiên cứu, nên cũng buộc phải học vật lý và những môn liên quan mật thiết
đến vật lý như Hóa lượng tử; vì thế
tự thấy cũng có điều kiện hơn một chút một nhà thơ thuần túy mơ tưởng, bước vào
cái địa hạt cao siêu huyền bí của vật lý lý thuyết. Hơn nữa, bản thân cũng rất
thích vật lý, đơn giản chỉ vì lịch sử phát triển của nó hay như một cuốn tiểu
thuyết vĩ đại, đầy kịch tính, các nhân vật lại đều là những người kiệt xuất; và
với một ý nghĩa thực dụng hơn, cầm bút viết phê bình mà không hiểu những phát
minh nền tảng của khoa học thì không thể viết cao sâu được khi phải đụng chạm
đến những vấn đề liên quan đến triết lý, tư tưởng và sự phát triển. Tôi thật e
ngại khi thấy có tình trạng một số ít người không có chuyên môn khoa học cơ bản
nhưng lại tung tăng đi vào các khu rừng tri thức như vào chỗ không người, nên
có quá nhiều sai lạc. Riêng Lê Đạt, thật tiếc, khi ông chưa hiểu được chính xác
những vấn đề khoa học hiện đại nhưng ông lại có cao vọng dựa vào chúng để đưa
ra những nguyên lý sáng tạo thơ ca.
Vậy dựa trên một cơ sở sai lạc để đưa ra cái mới thì cái mới cũng sẽ sai
lạc. Dù rất kính trọng tinh thần trẻ trung, đổi mới của Lê Đạt, hôm nay tôi vẫn
buộc phải viết bài thảo luận này.
Bài
“Thì... là...” của Lê Đạt là bài tôi
chú ý đầu tiên đăng trên Tạp chí Sông
Hương số 127, tháng 9-1999, dựa trên Vật lý Lượng tử, ông bàn đến sự phát
triển của thế giới hiện đại: “Ánh sáng
vừa là hạt vừa là sóng... Sóng và hạt không loại trừ nhau và cùng song song tồn
tại./ Đó là nền tảng của nguyên lý bổ sung cũng như hệ quả của nó, phương châm
chung sống hoà bình và thế giới đa cực”. Chỉ độc chuyện viết chữ hạt trước hay sóng trước trong câu trên đã có nhiều điều cần bàn rồi. Trong Vật
lý Lượng tử, người ta chia ra hai loại hạt: loại chất và loại trường
(sóng); loại chất là những hạt như
những viên gạch xây nên thế giới vật chất; loại trường là những hạt ảo, là lực liên kết, tức là “vữa” gắn kết các hạt vật chất tạo nên thế
giới chúng ta đang sống. Ánh sáng là lực
của trường điện từ, theo Einstein,
trong hiện tượng quang điện, nó cũng
thể hiện tính chất hạt. Vì vậy, câu
trên của Lê Đạt phải viết: “Ánh sáng là
sóng lại vừa có tính chất hạt...” mới đúng.
Cũng trong bài trên, khi bàn về đổi mới thơ ca, Lê Đạt viết: “sống là chống lại ăngtropi, sống là đổi
mới.../ Một nền thơ lành mạnh sống động không thể không luôn luôn đổi mới. Đổi
mới là lội ngược dòng suy thoái. Đổi mới là tạo ra ăngtropi âm nó chính là sinh
tố cải lão hoàn đồng của trí tuệ”.
Có
một sự không ổn khi Lê Đạt dùng khái niệm “ăngtropi”
ở trên. Vậy ăngtropi là gì? Trong
cơ học thống kê,
entropy là đơn vị đo lường mức độ hỗn
loạn của hệ. Sự tăng độ hỗn loạn, sự đổ vỡ cái cũ là một quy luật khách quan,
người ta chỉ có thể can thiệp bằng việc tiếp thêm năng lượng để có thể giảm sự
hỗn loạn hoặc cao nhất cũng chỉ giữ được trạng thái trật tự cũ. Trong khi đó
ngược lại, đổi mới thơ ca nói riêng và nghệ thuật nói chung là phải xóa bỏ cái
trật tự cũ để sinh ra cái mới. Như vậy, Lê Đạt “muốn nói cho có tính khoa học”, muốn đổi mới thì cần phải làm tăng ăngtropi, còn viết như trên, nghĩa
là Lê Đạt đã cổ xúy cho việc dẫm chân tại chỗ, ngược với ý ông muốn diễn tả.
Trong
tạp chí Tia sáng xuân 2002, chuyên đề
bàn về trí tưởng tượng, Lê Đạt viết: “Khoa
học Tự nhiên và quyết định luận của nó tuởng như đã có thể vĩnh viễn ngự trị
tất cả thế giới./ Những thể nghiệm nghiêm ngặt và công phu tại các phòng thí
nghiệm khiến các nhà khoa học tin rằng cuối cùng đã nắm được hiện thực và do đó
có thể điều khiển được nó - như tiểu Thượng đế thực sự”.
Câu này Lê Đạt viết ngược với tinh thần làm
việc khoa học cũng như lịch sử ngành vật lý. Cuối thế kỷ XIX, đúng là các nhà
vật lý tưởng đã “nắm được hiện thực”
nhưng “Những thể nghiệm nghiêm ngặt và
công phu tại các phòng thí nghiệm khiến các nhà khoa học” không tin rằng chứ không phải “đã tin rằng”
“cuối cùng đã nắm được hiện thực” như Lê Đạt viết. Vì chính nhờ những thí
nghiệm đó mà các nhà khoa học đã phát hiện ra những điều mà Huân tước Kelvin
coi là “hai gợn mây nhỏ” còn làm vẩn
đục bầu trời trong xanh bao la của khoa học: đó là kết quả của thí nghiệm đo bức xạ của vật đen khi bị nung nóng và
kết quả thí nghiệm đo vận tốc ánh sáng;
hai kết quả đó đã chứng tỏ tính ngang bướng của tự nhiên, không tuân theo suy
luận logic của tri thức vật lý hiện có. Và chính “hai gợn mây nhỏ” đó đã khiến các nhà khoa học không yên tâm, và
trong quá trình tìm hiểu để lý giải chúng, họ đã không ngờ rằng mình đã đưa
lịch sử vật lý sang một thời đại mới, với hai cột trụ là Thuyết Tương đối và Cơ học Lượng tử.
Lê
Đạt viết tiếp: “Ngày hội đuơng đông vui
rôm rả lại bỗng xuất hiện những khách không mời mà đến. Niels Bohr ông tổ thứ
nhất của ngành vật lý lượng tử quẳng ra một lời phát biểu hết sức “chối tai”: /
Hiện tượng không phải là hiện thực, nó là hiện thực cộng với dụng cụ quan sát
và người quan sát./ Chưa hết ông còn bồi thêm một đòn trí mạng nữa thông qua lý
thuyết bổ sung:/ Ánh sáng vừa là hạt vừa là sóng”.
Với
các nhà bác học, tôn vinh bằng lời lẽ thế nào cũng chưa xứng với họ, nhưng Lê
đạt viết như trên đã không đúng với lịch sử nghiên cứu Cơ học Lượng tử. Thứ
nhất Borh không phải là “khách không mời
mà đến” mà ông cũng là một chủ nhân bữa tiệc vật lý. Chính dựa vào phát
minh của thầy (Rutherford) và thầy của thầy mình (J.J.Thomson), ông đã đưa ra ”Thuyết cấu tạo nguyên tử” theo tinh thần
Cơ học Lượng tử.
Thứ
hai, Borh không phải là “ông tổ thứ nhất
của ngành vật lý lượng tử”. Danh hiệu đó nên dành cho M. Planck thì đúng
hơn. Để chiều theo tính ương bướng của tự nhiên trong hiện tượng phát xạ của vật đen như đã nói, ông đã
đưa ra một giả định “ngược đời”: năng
lượng được vật đen bức xạ không liên tục mà chỉ từng lượng nhỏ, tức lượng tử,
và ông đã đúng! Đó chính là viên gạch đầu tiên của lâu đài vật lý lượng tử.
Tiếp đến ông tổ thứ hai phải kể là A. Einstein, dựa vào phát minh của Planck,
cho: trong hiện tượng quang điện, ánh
sáng là sóng nhưng đã thể hiện tính chất của một hạt. Rồi mới đến lượt Borh, đã
áp dụng những thành tựu trên để cải tiến thuyết
cấu tạo hành tinh nguyên tử của Rutherford theo tinh thần lượng tử, cho
khớp với kết quả thí nghiệm về quang phổ.
Còn
câu phát biểu của Borh nói về thế giới vi mô không phải là “chối tai” mà thực chất rất êm
tai bởi ông có cái nhìn duy vật. Câu: “Hiện
tượng không phải là hiện thực, nó là hiện thực cộng với dụng cụ quan sát và
người quan sát” mà Lê Đạt đã dẫn cần phải chỉnh lại theo đúng tinh thần của
ông: Hiện tượng quan sát được không phải
là hiện thực mà là thuộc tính của hiện thực đã chịu tác động của dụng cụ đo,
còn Lê Đạt viết thêm “và người quan sát”
nữa là sai, vì đó mới là quan điểm duy tâm chủ quan “chối tai” của phái thực
chứng theo W. Heisenberg, cho: hiện tượng
trong thế giới vi mô là thực tại phụ thuộc vào chủ quan người quan sát, tức
cho ý thức quyết định được vật chất.
Lê
Đạt tiếp: “Chưa hết ông còn bồi thêm một
đòn trí mạng nữa thông qua lý thuyết bổ sung:/ “Ánh sáng vừa là hạt vừa là
sóng”.
Thực
chất phát minh về lưỡng tính sóng hạt
của thế giới vi mô công đầu phải kể là Planck, rồi Einstein như đã nói ở trên.
Tiếp theo là A. Compton, bằng những thí nghiệm tinh xảo đã chứng tỏ ánh sáng đã
thể hiện tính chất như một hạt khi va chạm đàn hồi với điện tử. Sau một phần tư
thế kỷ, thí nghiệm của Compton này mới làm Planck an lòng được, vì nó đã chứng
thực giả thuyết lượng tử “ngược đời” của ông. Cuối cùng phải kể đến L. De
Broglie đã đưa ra giả thuyết điện tử cũng có tính chất sóng, và đã được kiểm
chứng đúng. Vậy thực chất Borh không phải phát minh ra lưỡng tính sóng hạt mà
ông chỉ dựa trên những kết quả đã có để
đưa ra nguyên lý bổ sung, cho:
hạt hoặc sóng là tính chất của thế giới
vi mô thể hiện trong những điều kiện quan sát khác nhau, chúng mâu thuẫn nên
cần được bổ sung để phản ánh các mặt khác nhau của đối tượng nghiên cứu, chứ
không nên gộp lại sẽ phi logic.
Lê
Đạt viết tiếp: “Tôi không phủ nhận vai
trò những dụng cụ tinh xảo, nhưng tôi có cảm giác về số người quá nhấn mạnh đến
vai trò (quyết định) của chúng./ Người ta kể lại rằng khi vợ chồng nhà bác học
Einstein được mời đến thăm một đài quan sát thiên văn nổi tiếng tại Hoa Kỳ, vị
giám đốc có vẻ hơi tự đắc hỏi vợ nhà bác học:/ “Bà thấy trang thiết bị ở đây
thế nào?”/ Vợ nhà bác học điềm nhiên trả lời:/ “Hơi nhiều. Khi nghĩ ra thuyết
tương đối ông nhà tôi chỉ có một cuốn sổ tay và một cây bút chì”.
Câu
này Lê Đạt muốn đề cao trí tưởng tượng. Trong nghiên cứu khoa học nói chung,
việc làm thí nghiệm và sự phân tích các hiện tượng nảy sinh để đưa những suy
luận bằng trí tưởng tượng để đạt được kết quả là một thể thống nhất. Còn nếu
muốn chia ra thì e rằng Lê Đạt đã đề cao ngược. Theo triết học duy vật biện
chứng, trí tưởng tượng chỉ nảy sinh được từ thực tại chứ không thể từ hư vô.
Chính hiện tượng nguyệt thực đã chỉ cho loài người thấy là trái đất tròn khi
nhìn thấy bóng của nó là hình tròn in trên mặt trăng. Lịch sử khoa học chỉ ra,
trí tượng chỉ thực hiện tốt trong một phạm vi khi suy luận lôgic được tuân
theo, nhưng tự nhiên luôn ương bướng như đã trình bầy ở trên, nó luôn đưa ra
những kết quả ngược với trí tưởng tượng, buộc các nhà khoa học phải nghĩ cách
khác, như Planck đã phải mò ra chuỗi tính năng lượng cho khớp với tính phát xạ
gián đoạn; và Borh, để khớp với các vạch quang phổ nguyên tử, đã tự ý cho điện
tử chỉ chuyển động theo những quỹ đạo được phép, không phát xạ theo những quy
luật đã biết của vật lý cũ, chỉ phát xạ khi rơi vào quỹ đạo có mức năng lượng
thấp hơn. Vậy đoạn đối thoại: “Bà thấy
trang thiết bị ở đây thế nào?”/ Vợ nhà bác học điềm nhiên trả lời:/ “Hơi nhiều.
Khi nghĩ ra thuyết Tương đối, ông nhà tôi chỉ có một cuốn sổ tay và một cây bút chì”,
chỉ nên coi là câu nói vui của vợ Einstein, còn nếu bà nói thực thì chứng tỏ bà
không hiểu gì công việc của chồng mình.
Gần
như toàn bộ các nhà vật lý trong lịch sử đã công kênh cho Einstein đứng trên
vai mình để hái trái táo “thuyết Tương
đối”, đặc biệt từ phép biến đổi Lorentz và kết quả đo vận tốc ánh
sáng của Michelson. Chỉ trong năm 1905, Einstein đã đưa ra 5 phát minh, trong
đó có thuyết Tương đối hẹp, một phát minh vĩ đại; mà nếu chỉ một mình ông làm
từ đầu, chắc có sống đến nhiều đời cũng không làm nổi. Nói vậy thì ông có vĩ
đại không? Ông vẫn hoàn toàn vĩ đại, vẫn xứng đáng là công dân ưu tú nhất của
thế giới trong thế kỳ XX mà TIME đã chọn, vì để đưa ra những phát minh, ông
phải dũng cảm dựa vào những điều kỳ lạ không ai dám tin, tức phải chấp nhận
thời gian, không gian không phải là tuyệt đối, tách bạch, mà chúng co giãn theo
chuyển động và liên quan mật thiết với nhau; và nhân loại đang sống không phải
trong một không gian phẳng mà bị uốn cong bởi trường hấp dẫn. Và thật tuyệt vời
là người ta lại có thể kiểm chứng được những điều kỳ lạ đó, nên những phát minh
của Einstein là đúng! Những đồng hồ tinh xảo y hệt, được những người đeo trên
máy bay, bay xuôi chiều và ngược chiều vòng quay trái đất (để làm tăng sự khác
biệt về vận tốc của hai loại đồng hồ), sau thí nghiệm, người ta đã thấy hai
đồng hồ chỉ khác nhau. Điều này đã chứng tỏ thời
gian đã co giãn theo vận tốc đúng với thuyết Tương đối. Khi nhật thực,
người ta cũng đã thấy không gian đúng là cong, bởi nhận thấy tia sáng từ một
ngôi sao, đi qua không gian cạnh mặt trời đến trái đất, đã bị uốn cong!
Gần
đây nhất, qua trang web chungta.com,
tôi đã đọc bài Thơ và vật lý hiện đại
của Lê Đạt. Bài viết như một lời tâm sự rất xúc động của một nhà thơ già sau
chặng đường đời dài đầy thăng trầm, với một tâm hồn nhạy cảm và vẫn với một trí
óc đầy suy tư, ông luôn khát khao nhận diện được thế giới hiện đại và đổi mới
thơ ca. Ông kể lại cái duyên kỳ ngộ cho ông gặp vật lý rồi đắm say nó qua một
kỳ vận hạn đã đẩy ông vào: “một tình
trạng hết sức trầm luân về vật chất cũng như tinh thần”; ông đã được “... một anh bạn... (đó là nhà vật lý lý thuyết
Đặng Mộng Lân) giới thiệu với tôi cuốn Einstein: cuộc đời, tư tưởng và lý thuyết của Kouznetsov”; “Lâu lắm tôi mới được
đọc một cuốn sách khoa học viết hấp dẫn đến thế. Tôi đọc đi đọc lại nhiều lần.
Cuốn sách đã dậy tôi rất nhiều về lý thuyết tương đối nhưng hơn thế nó còn dậy
tôi một bài học lớn lao về cách sống và cách
nghĩ của một người tìm tòi”. Ông đã ngẫm ra một
điều rất đúng: “Khoa học thực nghiệm cổ
điển đã đem lại cho nhân loại những bước tiến lớn thoát khỏi những vũng lầy mê
tín...” Nhưng ông lại tiếp “... nhưng nó cũng có nhược điểm là dễ khiến
người ta quá chú trọng đến những hiện tượng tai nghe mắt thấy mà lơ là những
khía cạnh sâu xa và bí ẩn của tự nhiên mà chỉ tư duy mới nhìn thấy” thì
không được đúng lắm về vật lý. Vì vật lý cổ điển hay hiện đại cũng đều phải sử
dụng cái nhìn của tư duy. Lý thuyết điện từ của Maxwell, các nhà hóa học, sinh
học của “khoa học cổ điển” cũng đã
buộc phải nhìn thấy những cấu trúc vật chất mà các giác quan không thể nhận
thấy rồi. Còn riêng vật lý, cuối thế kỷ XIX, người ta không nhìn thấy những quy
luật mới do chưa ai có đủ tài để nhìn thấy chứ không phải tại phương pháp
nghiên cứu thiên về giác quan kìm hãm. Và chính Einsten là người mà lịch sử vật
lý cần đến đã xuất hiện, bàn tiệc đã dọn sẵn, và ông chỉ cần chỉ cho mọi người cách ăn mà thôi.
Lê Đạt viết: “Những nguyên lý bất
định, nguyên lý bổ sung của vật lý lượng tử đã giải phóng nhân loại khỏi lý
thuyết nhân quả tất định cứng nhắc...Chúng đã đánh một đòn chí mạng vào lý
thuyết chết người "loại trừ vế thứ ba" của logic cổ điển từng gây
thảm họa cho loài người (mà không phải chỉ trong phạm vi tư tưởng). Không nên
quên hệ quả cao điểm của nó là định thức “Kẻ nào không đi với ta là chống lại
ta". Các nhà vật lý lượng tử đã góp phần thiết kế cho nhân loại một phạm
trù mở, cái khác. Từ trước đến nay tư duy cổ điển chỉ vận hành trên hai trục
đúng sai giờ đây cái vạc hai chân kia đã thêm một trụ mới, trụ thứ ba về cái khác góp phần tạo nên một cách ứng xử mới, mở ra kỷ nguyên
đối thoại thay thế cho thói quen độc thoại chuyên chế và bạo lực”. Ở đây, Lê Đạt
dựa vào vật lý để suy ngẫm như trên là không khớp, vì thực ra lưỡng tính sóng hạt của cơ học lượng tử ngụ ý: trong cái này có cái kia và ngược lại trong cái kia có cái này chứ
không phải “có cái thứ ba” như Lê Đạt
viết.
Lê Đạt tiếp: “Từ khi cầm bút tôi đã
quan niệm việc cách tân thơ Việt là mục đích quan trọng nhất của đời mình...
Vật lý hiện đại (và thơ hiện đại) khuyến khích những giả thuyết thoạt nhìn như
rồ dại nhưng có khả năng mở ra những khía cạnh kỳ bí của ngoại giới (cũng như
thiết kế những tập họp chữ mới vượt qua biên giới cảm nhận sang những vùng tri
nhận phức hợp và quyến rũ, chuyển sự chú tâm của người làm thơ vào những tác
hiệu (siguthants) đa nghĩa sống động hơn là vào những thụ hiệu (siguihés) minh
bạch nhưng cằn cỗi)”. Tôi rất ủng hộ sự khao khát đổi mới, tán thành cái
quan niệm thơ hiện đại cần phải đưa ra được cấu trúc mới (tôi thấy có nét tương
đồng với các công thức vật lý chuyển tải những quy luật của tự nhiên). Ý của Lê
Đạt: “Thiết kế những tập họp chữ mới vượt
qua biên giới cảm nhận sang những vùng tri nhận phức hợp và quyến rũ, chuyển sự
chú tâm của người làm thơ vào những tác hiệu (siguthants) đa nghĩa sống động
hơn là vào những thụ hiệu (siguihés) minh bạch nhưng cằn cỗi” có thể là một
tuyên ngôn rất hay về thơ hiện đại. Chính bản thân tôi cũng đã tâm niệm điều
này rất nhiều khi làm thơ, đã muốn dựng lên những bài thơ với kết cấu sao cho
chúng như những bức chân dung của tư tưởng và tình cảm, muốn làm sao đó có thể
thể hiện được một cách súc tích nhất sự phức hợp của tâm hồn con người cũng như
thế giới ngổn ngang ta đang sống. Tiếc là cái tuyên ngôn của Lê Đạt trên lại
không liên quan gì đến tri thức vật lý mà ông dựa vào: “Lý thuyết về những phô tông đã khẳng định tầm quan trọng hàng đầu của
những cấu trúc gián đoạn thay thế những cấu trúc liên tục tăng chế ngự khoa học
cũng như thơ ca trong nhiều thế kỷ”. Tính liên tục và tính lượng tử
chỉ khác nhau như một sợi dây liền và một sợi dây đứt đoạn. Tôi thấy cả thơ cũ
cũng như mới đều là gián đoạn cả, mỗi con chữ như một lượng tử, rồi mỗi câu
thơ, ý thơ, khổ thơ cũ hay mới thì cũng phải gián đoạn. Có lẽ ở đây Lê Đạt muốn
nói đến sự diễn tả ý tứ liền mạch và gián đoạn, và theo ông cần phải thể hiện ý
đứt đoạn bằng cách “cần phải phá vỡ “những quy luật nghiệt ngã nhiều khi bảo thủ
của ngữ pháp”. Tôi thấy ở đây ông lại giống không ít người rơi vào chủ
nghĩa hình thức, cho đổi mới thơ chỉ bằng thay đổi hình thức giản đơn. Theo
tôi, sự chặt khúc ý tưởng bằng sai ngữ pháp chỉ có thể tạo ra được cái lạ, cái
ngô nghê, còn cái thuộc tính chính của thơ mà ông đã tuyên ngôn ở trên là cần
phải tăng sức biểu cảm, biểu đạt thì không thể được. Mà nếu dựa vào khoa học mà
xét thì lại càng không thể. Tất cả các định luật, công thức của khoa học đều
phải thống nhất với nhau, còn những chỗ chưa thống nhất tức còn “sai ngữ pháp”
thì chính là những bài toán mà khoa học chưa giải được. Ngữ pháp thực chất chỉ
là quy tắc của ngôn ngữ, còn ngôn ngữ cũng chỉ là công cụ giao tiếp của con
người, không phải là thực tại khách quan. Khi sử dụng ngôn ngữ sai thì hoặc do
khả năng ngôn ngữ, hoặc do trạng thái tâm thần người sử dụng, chứ hoàn toàn
không thể có chuyện: diễn tả hiện thực một cách “sai ngữ pháp” thì sẽ sâu sắc
toàn diện hơn. Trong tác phẩm, ngôn ngữ nhân vật có thể sai ngữ pháp, còn nhà
văn viết tác phẩm mà sai ngữ pháp là do học dốt. Để diễn đạt những điều phức
tạp, thực ra người ta càng phải viết cho chuẩn mực hơn.
Hiện
tại, thủ pháp “phá vỡ ngữ pháp” thể hiện nhiều kiểu, như câu thiếu thành phần,
hoặc ghép các hình ảnh ngẫu nhiên thành câu phi lô-gic ngữ nghĩa... giống như
bên hội họa phá vỡ hình thể khi vẽ vậy. Lịch sử ngôn ngữ hội họa đi từ giống
thật, đến khác thật, đến trừu tượng, rồi lại quay lại “hiện thật” (như các
trường phái trình diễn, xếp đặt). Vậy cái nào là chân lý? Tôi đã tự hỏi, hội
họa đã có trình diễn, sắp đặt, không
biết đến bao giờ sẽ có thơ tương tự; nếu có, người ta sẽ diễn tả nụ hôn như thế
nào, sẽ cắt những cặp môi trai gái tẩm ướp rồi dán lên giấy chăng?
Hình thức thơ là quan trọng nhưng nó không quyết định được phẩm chất của
thơ, không có chất, nó sẽ rỗng, giống như thức ăn không có gluxit, protid,
lipit... vậy. Con người khi đói ăn cái gì cũng ngon, nhưng lúc no nê, người ta kinh
sợ trước những bàn tiệc tú hụ với những món được tẩm ướp đủ kiểu, làm cho không
còn nhận ra những mùi vị cơ bản của thức ăn nguyên chất nữa, tất cả đều mặn
mặn, ngọt ngọt, beo béo, cay cay, dai dai, ròn ròn. Ở thành phố ba mươi năm
rồi, tôi vẫn luôn nhớ về dĩa thịt gà luộc giản đơn rắc lá chanh thơm của mẹ và
những món ăn dân giã. Nhiều quán “Cơm Hà Nội” ở Sài Gòn đã cố bắt chước cái
nguyên sơ ấy, nhưng không tài nào tạo ra được đúng cái hương vị tuyệt vời của
nó, bởi giữa thời đại cái gì cũng công nghiệp này, thực phẩm cũng bị ép thành
thực phẩm, chúng không đủ không gian và thời gian để tẩm hút linh khí của trời
đất để trở thành thực phẩm thứ thiệt. Từ đây tôi liên tưởng đến thơ ca. Nếu tâm hồn, tư duy nhà thơ cũng tẩm hút
không đủ những cay đắng, mặn chát, ngọt bùi của đời sống để có thể cung cấp
chất liệu đích thực cho thơ ca, chỉ với một chút vốn ngôn ngữ trống rỗng, liệu
có nhào nặn nổi thành thơ mới hay hơn
thơ cũ được không?
Với Lê Đạt, tôi chưa đọc thơ ông nhiều nên không dám nhận xét. Tôi luôn
trân trọng tinh thần đổi mới của ông, tiếc là bài này tôi lại phải viết những
điều phản bác những lý luận của ông. Dựa vào tri thức, người ta buộc phải hiểu
biết sâu sắc tri thức, như nhà khoa học muốn làm ra sản phẩm phải hiểu đúng mới
đưa ra được quy trình sản xuất. Nếu hiểu lờ mờ không thể làm gì được. Khi ấy,
tri thức giống như con dao cùn của người mở đường, không thể phát quang được
con đường dẫn đến vùng đất mới mầu mỡ, và như thế đã đẩy anh ta rơi vào cái
tình cảnh như dân gian thường nói: bỏ
đường quang đâm quàng bụi rậm. Vậy có nên không?
TP Hồ Chí Minh,
21-6-2006
(Đã trích đăng báo Văn
nghệ)
________________________________
TÀI LIỆU THAM KHẢO CHÍNH
1-
Ronald Gautreau - William Savin: Vật lý hiện đại (Ngô Phú An và Lê Băng Sương dịch). NXB Giáo dục, H., 1998, 500
trang.
2- Nguyễn Đình Huề: Hóa lý - Nhiệt động lực học hóa học. NXB Giáo dục, H., 2004,151 trang.
3-
Lê Minh Triết (Chủ biên): Từ điển các
danh nhân khoa học kỹ thuật thế giới. NXB Trẻ, TP Hồ Chí Minh,
1996, 428 trang
4-
A. Einstein: Thế giới như tôi thấy (Đinh Bá Anh, Nguyễn Vũ Hào, Trần
Tiễn Cao Đăng dịch). NXB Tri thức, H., 2006, 214 trang.
5- S. Weinsberg: Ba phút đầu tiên - Một cách nhìn hiện
đại về nguồn gốc vũ trụ (Lê Tâm dịch). NXB Khoa học - Kỹ thuật, H., 1998,
214 trang.
6-
S. Hawking: Lược sử thời gian (Cao Chi và Phạm Văn Thiều dịch). NXB Khoa
học và Kỹ thuật, H., 1995, 280 trang.
7-
S. Hawking: Vũ trụ trong vỏ hạt dẻ (Nguyễn Tiến Dũng, Vũ Hồng Nam dịch).
NXB Trẻ, TP Hồ Chí Minh, 2004, 254 trang.
8-
Trịnh Xuân Thuận: Giai điệu bí ẩn và con người đã tạo ra vũ trụ (Phạm
Văn Thiều dịch). NXB Khoa học và Kỹ thuật, H., 2000, 383 trang.
9-
Đỗ Kiên Cường: Hiện tượng tâm linh.
NXB Trẻ, TP Hồ Chí Minh, 2001.
10- Nguyễn
Cảnh Hồ: Một số vấn đề triết học của vật lý học. NXB Khoa học Xã hội,
H., 2000, 350 trang.
11- Lê Văn Giạng: Khoa học cơ bản thế kỷ XX đối với một số vấn đề lớn của
triết học.
NXB Chính trị Quốc gia, H., 2000, 370 trang.