Đất
miền Trung gian khó tôi luyện con người nên dễ sinh anh hùng và tài năng. Bác
Hồ, Bác Giáp, Bác Duẩn, Bác Đồng đều quê miền Trung; Tố Hữu, Chế Lan Viên,
Hàn Mặc Tử cũng quê miền Trung. Ngược lại, thật đáng tiếc, mật độ chống phá
đất nước trong giới nhà văn cao nhất thì “xóm nhà văn miền Trung” cũng
là cao nhất trong giới nhà văn. Có thể kể ra mấy gương mặt «cộm cán» như
Nguyên Ngọc, Nguyễn Huệ Chi, Nguyễn Quang Lập, Võ Thị Hảo, Phạm Xuân Nguyên,
Huy Đức (“San hô»), v.v... Dường như cũng do mảnh đất ấy chật hẹp nên đã
làm cho những kẻ phàm phu, tục tử đầu óc nhỏ hẹp, cái nhìn thiển cận. Huy Đức
đã nhìn lịch sử qua lỗ đồng xu. Nữ Sử gia Josephine Stenson
ở Mỹ, một đất nước cựu
thù, dù rất biết “Trên thế giới người
ta gọi Việt Nam là vương quốc “chuột nhắt” vì tệ trộm cắp thì không
nước nào sánh bằng” nhưng vẫn tự bỏ tiền túi ra để đi từ Mỹ sang Pháp và
Liên Xô cũ để tìm những di tích gốc về Hồ Chí Minh để rồi cuối cùng “Tôi xin dâng tặng những lời ca đẹp nhất
về Hồ Chí Minh”; “Hồ Chí Minh là một người cộng sản vĩ đại, là một siêu nhân,
ông càng vĩ đại hơn ở chỗ ông là một con người bình thường sống hòa lẫn vào
trong cuộc sống của xã hội chứ không phải siêu phàm”. Ấy vậy mà Võ Thị
Hảo từng là một “cháu ngoan Bác Hồ”,
một nhà văn, lại viết láo lếu thế này: “Hồ
Chí Minh được đưa lên làm thần tượng của người VN trước đây, được gọi là Bác
viết hoa là vì ông đã rất giỏi tự tô vẽ, được tô vẽ, thần thánh hóa bởi bộ
máy tuyên truyền và quyền lực bất chấp sự thật với nguồn kinh phí khổng lồ,
nhai đi nhai lại về công lao và đạo đức của ông trong gần một thế kỷ thì mới
đạt đến độ ấy”! Tôi đã gọi thị là “bất
Hảo” có tầm nhìn cao xa của “bãi
cứt trâu” là vì vậy.
Độc giả thường vô đọc trang của
tôi từ trang blogcanhsat4sao
nên tôi đã vào trang này, rồi thấy “ta”, “địch” đủ cả nên cũng hay vào để “nắm tình hình”, vì thế tôi đã biết
trang của ông Ngô Minh từ đây. Vừa rồi ngoài chuyện cho “20 nhà văn bị đuổi” là “tổn
thất lớn” tôi thấy Ngô Minh
cũng với tầm nhìn hạn hẹp “đặc sản Miền
Trung”, với cả một sự nghiệp đồ sộ của Chế Lan Liên, đã chỉ nhặt ra mấy
bài của ông để rồi cho ông là “sám hối”!
Vì vậy hôm nay tôi xin đăng lại bài
tôi viết về Chế lan Viên.
23-5-2015
ĐÔNG LA
|
CHẾ LAN VIÊN
TRONG HỒI QUANG CỦA KÝ ỨC
Đây là bài tôi viết sau cái
chết của nhà thơ lớn Chế Lan Viên 8 năm, người mà định mệnh đã ưu ái cho tôi
được gần cận ông mấy năm cuối đời, chứng kiến toàn bộ “cuộc ra đi” về cõi vĩnh
hằng của ông. Bài đã được in trong cuốn “Biên
độ của trí tưởng tượng”. Gần đây, cập
nhật những thông tin mới về ông, tôi có viết thêm ít dòng, những mong góp phần
làm sáng rõ thêm chút nào đó về một tài năng và nhân cách lớn của nền văn
chương hiện đại Việt Nam – Đông La.
Vào
một buổi sáng cách đây tám năm, khi đến thăm nhà thơ Chế Lan Viên, tôi thấy ông
mừng như chưa bao giờ mừng như thế. Ông nói với tôi:
- Hú vía, cứ tưởng
bị bệnh gì nặng lắm nào ngờ bác sĩ ở Bệnh viện Thống Nhất lại hỏi mình đã tẩy
giun chưa?
Ông cười thật khoái
chí. Ông mới đi khám bệnh hôm trước. Nhưng rồi cả ông, cả gia đình, và tôi cũng
không ngờ rằng, đó chính là niềm vui trọn vẹn cuối cùng của ông ở cõi đời này.
Bởi sau đó sẽ lại là bệnh viện, là tràn ngập thất vọng xen lẫn những hy vọng
mong manh; sẽ là mổ xẻ, là di căn; rồi cuối cùng ông đã đi về “xứ không mầu”, về “Bầu trời khác cũng đầy hoa”…
Ông không bị bệnh
đơn giản như thế. Sau đó vài ngày, tôi đã cầm thư tay của ông đến văn phòng Hội
Nhà văn TP Hồ Chí Minh xin giấy giới thiệu để ông đi an dưỡng tại Bệnh viện Chợ
Rẫy, nơi có Bác sĩ Dinh, chồng nhà thơ Anh Thơ, bạn ông. Lúc tôi đi, ông còn
nói với theo: “Ông nhớ nói nó ghi tôi chuyên viên 8 nhé”. Và rồi chính ở Bệnh
viện Chợ Rẫy, người ta đã phát hiện ra khối u ác trong phổi ông.
Thoắt cái đã tám năm
trôi qua rồi. Thân thể ông đã biến thành một bọc tro than rải xuống sông Sài
Gòn và một bình tro xương đặt tại chùa Vĩnh Nghiêm. Nhưng tinh thần ông, tư
tưởng ông, thơ ca ông thì vẫn vẹn nguyên, vẫn sống động như thuở nào.
Như một quà tặng của
số mệnh, với khoảng cách 35 năm tuổi và đỉnh cao của một tên tuổi lừng danh,
tôi đâu có ngờ, sau khi đọc chùm thơ mà tôi dự thi ở cuộc thi thơ của Hội Nhà
văn TP Hồ Chí Minh năm 1986, ông đã dành cho tôi một tình cảm đặc biệt. Hôm đó,
tôi đã nhờ cô Thường đưa thơ của tôi cho ông coi. Bà nói với ông:
-Anh
Hoan (tên ông) ơi, cậu này cũng có làm thơ, cậu ấy có chùm dự thi đây này, anh
coi giúp xem.
-
Ông (ông thường gọi tôi vậy, còn tôi gọi ông là “chú” xưng “cháu”) cũng có
làm thơ à? - Rồi sau khi đọc xong, ông reo lên - Ô, ông làm được đấy, ông sẽ
được giải đấy!
Tôi
ngạc nhiên đến độ không còn biết đến vui mừng nữa vì không hiểu “được giải”
nghĩa là thế nào? Sao ông lại cho giải ngay tại nhà ông? Rồi ông tiếp: “Tôi có thể cho ông giải cao nhất cũng được,
nhưng ông chưa có lực khéo người ta giết ông đấy! Thôi, tôi cho ông đứng đầu
giải ba!”. Ông nói xong, tôi còn ngạc nhiên hơn khi thấy ông vào trong
buồng, bê ra một chồng vở khổ lớn ra khoe với tôi một cách hồn nhiên như khoe
một người bạn tâm giao vậy:
- Ông biết tôi làm
thơ như thế nào không? Khi nào nghĩ ra được một câu hay tôi chép vào quyển đầu
này, khi nào có tứ sẽ phác thảo vào cuốn thứ hai, tôi đánh mục lục đàng hoàng
để hoàn thiện dần.
Bấy giờ Vàng Anh còn
nhỏ có thể không để ý đến “chuyện riêng” của tôi với cha cô; còn cô Thường có
thể cô không nhớ, mà cô nhớ làm gì chuyện một người làm thơ trẻ đến gặp ông, vì
người ta từng đến quá đông. Nhưng với tôi thì ngược lại, một người tập tọe làm
thơ lại được chính Chế Lan Viên khen, còn cho giải nữa, thì không thể là chuyện
bình thường được. Tuy nhiên, đang là cán bộ nghiên cứu của một Viện Dược, tôi
cũng không đến nỗi quá phởn chí bỏ hết các thứ để lao vào thơ ca, không dễ ngây
ngô bỏ mồi bắt bóng. Nhưng quả thực tôi vẫn muốn được Chế Lan Viên xác nhận lại
khả năng của mình một lần nữa để tôi còn “liệu” cho tương lai của mình, nhưng
tôi ngại không dám hỏi. Phải đến lần ông nói với tôi:
- Ông nên có một chỗ
sinh hoạt. Để tôi bảo Nguyễn Quang Sáng ghi tên vào Hội thành phố trước đã, -
ngẫm nghĩ một lát ông tiếp - Thôi, bây giờ ông lên văn phòng xin một bộ hồ sơ
rồi nói với anh Chim Trắng là tôi nhờ anh ấy cùng tôi đứng tên giới thiệu ông
vào Hội.
Tôi quá ngạc nhiên
và quá xúc động, quả thực đời tôi chưa có một người dưng nào lại quan tâm tới
mình như thế, lúc ấy tôi cảm thấy ông như cha của mình vậy và nhanh trí thừa
dịp hỏi luôn:
- Thế… cháu làm thơ
có được không chú?
Ông
cáu, nhưng sự phật ý này của ông đã mang lại đời tôi một trong những niềm vui
lớn nhất, ông trả lời tôi hơi gắt:
- Ông tưởng tôi cho
ông giải vì tình cảm riêng hở! Ông nên nhớ, trước ông đến nhà tôi đã có hàng
vạn người rồi, nếu vì tình cảm mà cho giải thì bao nhiêu cho đủ?!
Từ đó, sau chính câu
nói này của ông, tôi không còn băn khoăn đến điều mình có khả năng hay không
nữa và xác định một thái độ nghiêm túc đối với việc viết lách, và noi gương
ông, trước khi đặt bút viết, tôi phải tự trả lời được câu hỏi: “tại sao lại
viết thế?”, nên đã tiếp cận sâu vào lý luận. Tôi có tham vọng muốn đến được tận
cùng cái nguyên lý mà từ đó người ta đã xây nên những quan điểm về cái hay, cái
đẹp, cái giá trị của tác phẩm nghệ thuật.
Tôi đã mở được cánh
cửa đến với “Không gian Chế Lan Viên” là như thế. Từ đó tôi đã thành người thân
của gia đình, được nghe ông nói nhiều về thơ, về những điều rất tinh tế, rất
cao sâu. Ông không răn dạy mà thường chỉ bộc bạch, giãi bầy những suy tư trăn
trở. Với những thành tựu đã đạt được, người khác chắc không ai đắn đo như ông:
“Tôi đi giữa nét vằn và dáng ngựa/ Phối
hợp hai cực hai đằng dễ đẻ ra văn”; ông cũng từng viết mà tôi chỉ nhớ ý: “Chỗ này sâu ư?/ Không phải, chỉ vì nước
đục!/ Chỗ này nông ư?/ Không phải, vì nước trong nên ta nhìn thấy đáy./ Cái sâu
cạn trong thơ là thế đấy!”. Ông cũng nói rất cụ thể với tôi:
- Thế nào là thơ
hay? Thơ hay bắt đầu từ chữ hay, rồi đến câu hay, đoạn hay, toàn bài hay. Nhưng
thế nào là hay? Cái hay là sự sáng tạo ra cái mới lạ, cái độc đáo, là ở độ khó
để làm ra chúng. Nhưng tất cả những cái đó lại phải có ý nghĩa, có giá trị.
Rồi
ông đọc hai câu ca dao: “Tay trồng cây
cửu lý hương/ Ba năm hai lá người thương dịt đầu”. Ông bảo phải trồng đến
ba năm mới được hai lá để dành cho người thương quả là kỳ công thật, đúng là
yêu nhau thật!
Giờ
ngồi nhớ lại mối quan hệ với một nhà thơ lớn mà cứ như nhớ về một giấc mơ, một
câu chuyện cổ tích. Sau khi đề nghị trao giải cho tôi, giới thiệu tôi vào Hội,
ông còn đến báo Văn nghệ TP Hồ Chí Minh
gởi gắm tôi, rồi còn xin cho tôi đi làm ở một tờ báo… Quả thật, ông đã quan tâm
đến tôi như sự quan tâm của một người cha.
Hồi
nhỏ, tôi vốn học khá những môn tự nhiên, luôn có ước mơ trở thành một nhà phát
minh, nên thần tượng không phải là những nhà văn nhà thơ mà là những nhà bác
học trán dồ và râu dài. Tôi không một mảy may quan tâm đến văn chương. Thế mà
không hiểu sao tôi lại nhớ thơ Chế Lan Viên. Năm 1974, năm đầu vào chiến
trường, một đêm dưới mái lá trung quân, tòng teng trên cánh võng, trong tiếng
rì rầm của sóng sông Đồng Nai vỗ nhẹ vào bờ đá, tôi đã hứng chí đọc bài “Người đi tìm hình của nước” của ông, mà
tôi được học trong sách giáo khoa, cho đồng đội nghe với một sự đắc ý về sự
hiểu biết của mình.
Nhà
thơ Anh Thơ một lần đã tặng tôi một tuyển tập thơ, trong đó tôi lại rất thích
những bài: Con cò; Tình ca ban mai; Rét
đầu mùa nhớ người đi phía bể của Chế Lan Viên. Thế là lần thứ hai, từ sự
hồn nhiên, tôi đã yêu mến thơ ông. Riêng bài Con cò, khi quen ông, tôi còn dám bình trước ông nữa, không sợ gì
chuyện múa rìu qua mắt thợ cả:
-
Cháu rất thích hai câu: “Con ngủ yên thì
cò cũng ngủ/ Cánh của cò hai đứa đắp chung đôi”. Lấy cánh cò thực đắp cho
đứa bé đã là lạ rồi. Còn cánh cò ở đây lại ở tận trong lời ru cơ!
Nghe
xong, ông có vẻ xúc động, ông bảo:
- Con Thắm đấy,
con Thắm đấy!
Với bài Con cò, ông đã thể hiện được một phần quan trọng trong đời sống
tình cảm của mình. Bên cạnh những mối quan tâm lớn lao đến thi ca, đến mọi mặt
cuộc sống, ông luôn có đam mê chăm sóc con cái bằng những việc li ti thường
nhật. Còn hai bài: Tình ca ban mai và Rét đầu mùa nhớ người đi phía bể, tôi
thấy là hai bài điển hình cho hai phong cách ngôn ngữ của thơ ông: ngôn ngữ có yếu tố tượng trưng và ngôn ngữ có yếu tố siêu thực.
Lối tư duy bằng hình tượng, diễn tả ý
tưởng bằng những hình ảnh tượng trưng là một thao tác được ông dùng thường
xuyên. Khác với nhiều tác giả khác làm thơ tình, thơ lãng mạn, với sự giãi bầy,
thổ lộ, kể lể, tán dụng… quá chi li cụ thể, gây cho người đọc thông minh một sự
ngán do cái rõ ràng thừa mứa. Tình ca ban
mai không thế. Chế Lan Viên đã để chừa một khoảng im lặng cho độc giả tự
xúc cảm. Bài thơ đã được thiết kế một bộ khung thơ lãng mạn, các yếu tố tượng trưng được đính lên đó để
thể hiện những ý tưởng, cảm xúc. Như vậy nó không lãnh đạm như tượng trưng của
chủ nghĩa Tượng trưng, người đọc phải
xúc cảm thông qua những ám thị trước những hình ảnh, mà tình cảm đã chan hòa ở
tất cả các dòng thơ. Thế nhưng ý tứ cụ thể thế nào thì ông diễn tả theo đúng
như Mallarmé, một trong những ông tổ
của thơ Tượng trưng, từng nói: “Từng bước gọi ra một vật thể, và như thế
phơi bầy một tình cảm”. Tất cả những sự chia
ly, gặp gỡ, nỗi buồn, niềm vui… đều được ông thể hiện bằng những hình ảnh chiều đi, chim vườn, mai về, rừng non, trời
trưa, nắng sáng…
Em đi như chiều đi
Gọi chim vườn bay
hết
Em về tựa mai về
Rừng non xanh lộc
biếc…
Ta thử phân tích một câu đầu. Ở đây sự xa
cách, nỗi buồn đã được thể hiện bằng hình ảnh chiều đi. Chiều đi là hoàng hôn về, rồi đêm xuống, tắt nắng, vắng
lặng, rồi buồn, rồi cô đơn… Như vậy, từ hình ảnh gốc, nếu sử dụng đắc địa, phù
hợp, nó sẽ có khả năng gợi mở, tạo ra một chuỗi những liên tưởng, giống như sự
bắn phá của hạt nơtron sơ cấp vào một hạt nhân, sẽ tạo ra vô vàn hạt thứ cấp và
các mảnh vỡ, dẫn đến hình thành một năng lượng khổng lồ. Có lẽ, sự thưởng thức,
rung động trước một tác phẩm thi ca cũng từa tựa như thế.
Về yếu
tố siêu thực trong thơ Chế Lan Viên, còn rất ít sự phân tích. Việc nhận
dạng tính siêu thực trong hội họa,
trong văn chương cũng đã nói nhiều, nhưng còn mù mờ và mâu thuẫn nhau, kể cả
những nhân vật có tiếng tăm. Người thì cho siêu
thực là cao siêu, người thì cho là mờ ảo… Thực ra siêu thực là một quan niệm sáng tác, có cơ sở lý luận riêng, đã trở
thành một chủ nghĩa trong văn học nghệ thuật, đặc biệt là trong Hội họa và Thơ
ca. Riêng Chế Lan Viên đã sớm viết về nó. Ông từng viết: “Siêu thực là gì: là romantisme jusq’au bout (lãng mạn đến tột cùng)…
Người Trung Quốc gọi là kỳ, tân là mới thì chưa đủ, sau tân
còn phải kỳ (lạ) nữa…”. Khi bàn
về cái lạ của ngôn ngữ thơ ca, ông từng trích những câu: “Mái nhà dài như một tiếng chiêng” (Trường ca Đam San); rồi “Anh
về mua lụa bọc trời” (Ca dao);…
Như vậy, tính siêu thực của ngôn ngữ thơ ca chính là tính bất thường khi thể hiện
những sự vật, hiện tượng bình thường, với một sự tưởng tượng, liên tưởng cao
nhất, để thấy một hiện thực khác trong tâm tưởng, nó phong phú, kỳ lạ, ấn tượng
hơn với những ví von, ghán ghép đầy bất ngờ, tạo ra những chiều kích, hình dạng
và những tính chất khác mà bản thân hiện thực tĩnh không có.
Chế Lan Viên không chấp nhận và không
làm thơ siêu thực thuần túy, ông
không chấp nhận quan điểm thơ “đứng ngoài
mọi thiên kiến thẩm mỹ hay đạo đức” của Chủ
nghĩa Siêu thực; không chấp nhận thơ ca quá xa lạ với bản năng thích cái
hay, cái đẹp hồn nhiên của con người. Thơ ông không có những hình ảnh siêu thực
kỳ dị theo đúng tính chất ngẫu nhiên, sự gán ghép kỳ lạ của nó: “Đẹp như một cuộc gặp tình cờ của một cái máy
may với một cây dù trên bàn mổ” (Lautréamont);
hay như Breton mô tả hình dáng người
đàn bà vừa như đồng hồ cát lại như con rái cá: “Vợ tôi… có vóc hình của đồng hồ cát… có vóc hình con rái cá trong hàm
răng con hổ” (Tự do kết hợp - Quỳnh
Thư Hiên dịch). Ông chỉ chấp nhận tính kỳ lạ trong thơ mà hình như ông là người
đầu tiên gọi là “yếu tố siêu thực”
bởi ít nhiều nó có nét tương đồng. Ông coi nó như một chuyện tất nhiên trong
sáng tạo, như một phần rượu trong một bữa cơm, là cách để “tăng năng suất ý”. Ông viết bài Rét
đầu mùa nhớ người đi phía bể:
Cái rét đầu mùa anh rét xa em
Đêm dài lạnh chăn chia làm
hai nửa
Một đắp cho em ở vùng sóng bể
Một đắp cho mình ở phía không
em.
Đây là bài thơ đã gây cho tôi một ấn
tượng rất mạnh. Chính tính bất thường của ngôn ngữ đã gây ra cái ấn tượng ấy.
Chỉ một tấm chăn thôi mà đã đắp cho mình rồi còn đắp được cho người yêu tận nơi
chân trời góc bể nữa. Cũng lạ như thế, hai câu trong bài Con cò mà tôi đã nói:
Con ngủ yên thì cò cũng ngủ
Cánh của cò hai đứa đắp chung
đôi
Khi viết về Côn Sơn, ông đã thấy mùi
hoa đại thơm từ tận thời của Nguyễn Trãi:
Côn Sơn thơm mùi hoa đại
Thơm từ thời Nguyễn Trãi đến
thời ta
Và khi đến với thiên nhiên, ông cũng
nhận ra được một tính chất khác, một khả năng khác của nó:
Mỗi lần đau anh lại đến Tây Hồ
Chữa lành anh là bông súng
tím
Trong tập Điêu tàn mà ông viết từ thuở thiếu thời, tôi không chú ý lắm đến
những đầu lâu, xương cốt, tháp Chàm lở
lói… bởi chúng là những cái lạ lồ lộ, ai cũng thấy. Tôi lại chú ý đến những
câu ông có cách diễn đạt lạ nhiều hơn:
Ta cùng nàng nhìn nhau không tiếng nói
Sợ lời than lay đổ cả đêm
thâu
Một động tác (lời than) lại có thể lay đổ được cả thời gian (đêm thâu). Lạ lùng biết bao nhưng cũng có lý biết bao! Khi người ta
quá yêu nhau, đòi hỏi một sự hoàn thiện; khi trái tim quá nhạy cảm thì chỉ cần
một dấu vết của sự không hoàn thiện thôi cũng có thể dẫn đến sự đổ vỡ, một lời
than có thể làm hỏng mất cả cái đêm yêu đương huyền diệu kia. Đọc những câu thơ
của ông, ta thấy được cái im lặng vô cùng của không gian, nhưng lại là cái im
lặng trước một cơn bão, trước cái khoảnh khắc mà những dòng nham thạch của ngọn
núi lửa đang lịm ngủ, chuẩn bị trào sôi!
Thế đó, tôi đã yêu thơ Chế Lan Viên từ
khi chưa có mảy may nào bận tâm về văn chương, chưa từng biết mặt ông. Có lẽ vì
người ta thường đồng cảm với những gì gần gũi với mình. Sau này làm thơ rồi khi
xem kỹ thơ mình, tôi ngạc nhiên thấy mình cũng có khá nhiều câu thơ ngồ ngộ, ví dụ như: “Anh
xa em gần nửa vòng trái đất/ Nỗi nhớ
cũng cong theo dáng Địa cầu”;
rồi: “Con lại đến với ngôi trường sơ tán/
bốn bờ tường như bốn ụ đất lom khom/ Cô
vá lại cho con cái ước mơ rách nát”… Khi cầm bút viết phê bình, tôi
nhận ra những câu thơ lạ đó không phải là độc quyền của riêng ai mà chúng chính
là sản phẩm của trí tưởng tượng, tức “hồn thơ” của mỗi thi sĩ. Chính trí tưởng
tượng của nhà thơ đã tạo ra sự lạ hóa cách thức biểu đạt, từ đó mới tạo ra được
những sắc thái biểu cảm mới, Lưu Quang Vũ
tả mái tóc người yêu: “Tóc em dài như một
ngày mỏi mệt”; và Phùng Khắc Bắc: “Con
số 8 như vòng tròn vặn mình/ Giống như người đang quay ngoái lại”…
Từ khi được quen thân với Chế Lan Viên,
tôi đọc ông kỹ hơn, những tác phẩm chính tay ông đề tặng, gia đình ông đề tặng,
và tôi cũng tự đi tìm kiếm, tôi đã đồng cảm với ông rất nhiều. Tôi nhớ một lần
ông nói: “Tôi muốn làm được loại thơ có
thể đọc được từ trên xuống, cũng có thể đọc được từ dưới lên”. Tôi nhận
thấy thơ ông gần như đã bao trùm hết cả. Từ những ngõ ngách, tầng cao, tầng
thấp của cuộc sống tinh thần con người, đến những mối liên hệ giữa con người
với con người, giữa con người với xã hội, giữa con người với tự nhiên. Và ông
quan tâm nhiều đến sứ mệnh của thơ; ông làm nhiều thơ về thơ, muốn khám phá cái
cơ sở triết lý hình thành nên thơ ca và sự tồn tại của nó theo thời gian.
Cùng là những người yêu thơ ông, nhưng
người ta yêu cũng khác nhau, người thích bài này, người thích bài kia; người
đánh giá giai đoạn này cao hơn giai đoạn kia… Còn tôi, giống như số đông, tôi
thích tập Ánh sáng và phù sa. Có giai
đoạn thơ ông nghiêng về tính chính luận, tính thời sự; giai đoạn cuối (phần di
cảo) thơ ông nghiêng nhiều hơn về tính suy tư, về cái tôi. Ánh sáng và Phù sa đã hòa quyện tất cả những gì ông có. Nó có tất
cả vẻ đẹp của thơ. Ông đã viết nên nó ở giai đoạn chín nhất, sung sức nhất của
khả năng tư duy (khi ông 35- 40 tuổi). Ở đấy sự thông minh đã hòa tan vào tình
cảm; mỗi trang thơ đều thấm đẫm cảnh sắc của thiên nhiên nguyên thủy, có hổn
hển hơi thở ấm áp và nhịp đập rạo rực của cuộc sống. Ở đó có những bài thơ rất
nổi tiếng, là những bài thơ tiêu biểu cho cả một giai đoạn văn chương: Người đi tìm hình của nước; Tiếng hát con
tàu; Giữa tết trồng cây; Tình ca ban mai… Có những câu thơ được thuộc nằm
lòng trong các thế hệ độc giả:
Nhớ bản sương giăng, nhớ đèo mây phủ
Nơi nao qua, lòng lại chẳng yêu thương
Khi ta ở, chỉ là nơi đất ở
Khi ta đi
đất đã hóa tâm hồn
Anh bỗng nhớ em như
đông về nhớ rét
Tình yêu ta như
cánh kiến hoa vàng
Như xuân đến chim
rừng lông trở biếc
Tình yêu làm đất lạ
hóa quê hương
(Tiếng
hát con tàu)
Nếu ai đã từng xa Tổ
quốc, thấy mình thành dân thiểu số ở xứ người, khi cái tôi bị nhấn chìm trong
sự xa lạ, sẽ rất thấm thía câu thơ của ông:
Tổ
quốc thân yêu như quả tim thầm
Ở giữa lòng ta nào ta
có biết
Trong xa cách bỗng
à ơi giọng Việt
Ru lòng tôi qua
ngàn dặm quê xuân
(Ý
nghĩ mùa xuân)
Còn đây là tình cảm
của ông đối với Đảng - Người đã thay đổi toàn bộ cuộc đời ông; từ một chú bé
chỉ thấy những điêu tàn đổ vỡ, đến mùa xuân cũng chẳng thiết: “Tôi có chờ đâu có đợi đâu/ Đem chi xuân lại
gợi thêm sầu/ Với tôi tất cả như vô nghĩa/ Tất cả không ngoài nghĩa khổ đau”
(Xuân), lại trở thành một chiến sĩ cách mạng, đầm mình trong gian khổ, rồi
làm thơ yêu đến rưng rưng từng gốc cây, ngọn cỏ:
Ngày
vào Đảng đất trời như đổi khác
Những vật vô tri
cũng làm rưng rưng nước mắt
Đá sỏi, cây cằn sao bỗng thấy thiêng liêng
(Kết nạp Đảng trên quê mẹ)
Còn đây là những câu
thơ tả cảnh tuyệt đẹp của ông:
Tôi muốn đến chỗ nước trời lẫn sắc
Nơi bốn mùa đã hóa thành thu
Nơi đáy bể những rừng san hô
vờ thức ngủ
Những rừng rong tóc
xõa lược trăng cài (Cành
phong lan bể)
Và đây là những câu
thơ ông viết về tình yêu cuộc sống:
Cởi giày ra cho chân
anh giẫm lên cỏ xanh non
Có phải đất này từ lúc nhân dân tôi làm chủ
Cái sống ngọt ngào trong
từng ngọn cỏ
Một cành hoa cũng muốn giục
môi hôn
(Tàu đến)
Quả thực, nếu ai
chưa trải qua đắng cay, sẽ khó thấy hết ý nghĩa của ngọt bùi, Chế Lan Viên từng
phải vượt qua những thách đố lớn của cuộc sống, những con đèo hiểm trở chắn
ngang đường đời ông. Hiểu được cuộc đời lắm gian truân của ông, ta mới thấy
tình yêu thơ ca của ông lớn biết bao nhiêu! Mới thấy hết cái nghị lực phi
thường ở thi sĩ ấy:
Ta lấn từng nỗi đau như mùa chiêm lấn vành
đai trắng
Lấn bệnh tật mà đi, máu đỏ lấn da xanh
Rồi:
Tôi nhặt từng hạt vàng sức khỏe rơi đi
Như mẹ già nhặt hạt thóc vàng đã đổ
Nhặt từng hạt máu mặt trời
vứt bỏ
Từng giọt thi tài rơi vãi
dưới chân đi
Có một phần rất quan
trọng làm nên tính cách Chế Lan Viên mà hồi đó trước ông, vì ở một thế hệ khác,
tôi giống như một đứa con ngoan ít khi để ý những chuyện rắc rối của bậc cha
mẹ, ngay cả khi ông dặn tôi câu sau mà tôi cũng không chú ý lắm: “Đi đâu ông đừng nói thân với tôi nhá, người
ta sẽ ghét ông lắm đó!”. Khi biết tôi quen Chế Lan Viên, một số người từng
biết ông giai đoạn trước bảo, ngày xưa còn quyền lực ông “ác” lắm; ông có lối
đối đáp truy sát không cho người đối thoại “ngóc đầu dậy” được. Như chuyện một
nhà thơ từng bị ông loại thơ thế nào ấy nói: “Anh cậy có quyền dìm tôi”; Chế Lan Viên trả lời ngay: “Anh có nổi bao giờ đâu mà tôi phải dìm!”.
Tôi cũng được nghe một số người kể chuyện ông Phan Quang vào Hội Nhà văn; Ban Chấp hành họp xem có nên
duyệt không, đợi ý Chế Lan Viên, nhưng ông còn bận đi đái, đái xong vào ông
bảo: “Thằng Thép Mới còn được ở Ban Chấp
Hành xét người ta thì thằng Phan Quang làm gì không được vào Hội!”. Chuyện
này cũng có trong Hồi ký Nguyễn Đăng Mạnh, đoạn viết về Nguyễn Khải; theo
Nguyễn Khải: “Chế Lan Viên một thời dựa
thế Tố Hữu cũng hách lắm… Họp Ban chấp hành ý Chế Lan Viên là quyết định… Không
thể đối đáp kịp mồm Chế Lan Viên… Ai cũng gọi là thằng tuốt, thằng Nguyễn Đình
Thi, thằng Tô Hoài”. Riêng chuyện gọi “thằng” này thì
quả thực khi có ý giới thiệu tôi vào Hội Nhà văn TP Hồ Chí Minh, ông bảo: “Để tôi nói thằng Nguyễn Quang Sáng nó ghi
tên vào Hội”, nhưng khi kể lại tôi đã sửa cho “mềm” đi. Cũng theo Hồi ký
Nguyễn Đăng Mạnh, Tô Hoài gọi Chế Lan Viên là “thằng nặc nô của Đảng”…
Tôi cho rằng những
điều trên đây có thể có thật và đúng về Chế Lan Viên, ở gần ông, cũng có lần tôi chứng kiến ông
cáu với người thân. Có điều, tất cả những “nết” vừa kể trên đây, tôi không cho là ghê ghớm,
chúng không phải là những cái xấu, cái ác thực sự như cướp của, giết người,
gian manh, đểu cáng, vu oan giá họa… mà chỉ là những cái tật thường tình của mỗi con người. Loài người từ trước tới nay có
được mấy người toàn thiện, toàn mỹ? Trong một tính cách mãnh liệt của một tài
năng lớn, cái “tài” thường kèm theo cái “tật”. Còn những tham vọng, những đấu
đá, tranh đoạt của ông, nếu có cũng là sản phẩm tất yếu của một thời bao cấp,
người ta chỉ có một con đuờng phấn đấu duy nhất là làm cán bộ, có ai nằm ngoài
được cái vòng xoáy ấy đâu. Trong cuộc tranh đoạt ấy, tất có người thành công,
kẻ thất bại; và người thành công sẽ hể hả, còn người thất bại sẽ cay cú. Có
nhiều sự cay cú, bản chất là tầm thường, nhưng sau này lại được sơn phết một
cách có chủ ý một lớp sơn sang trọng là: đấu
tranh cho dân chủ và tiến bộ. Còn Chế Lan Viên, có thể nói ông thuộc phe
thành công, nhưng tôi thấy với tài năng của ông, ông hoàn toàn xứng đáng có
được những vị trí đã có, thậm chí còn phải cao hơn nhiều nữa, vì thực tế sau
ông có những người tài còn kém ông xa, đã leo lên được những chức cao hơn ông
rất nhiều!
Cuộc đời ai cũng có
mặt tốt mặt xấu, Chế Lan Viên cũng vậy, nhưng những thành tựu ông đạt được
trong văn chương đủ sức trùm lấp lên những điều vặt vãnh. Thật tiếc là ở ta đã
xuất hiện một số cuốn hồi ký viết theo phương pháp “ngồi lê đôi mách”, mà chủ
nhân của những câu chuyện chỉ dám nói nhỏ với những người “cùng giuộc”, chứ có
cho “ăn kẹo” cũng không dám viết công khai. Vậy mà đã có những người mang danh
nhà văn, giáo sư văn học này nọ, chỉ tách riêng những nét không hay dựng lên
chân dung những nhân vật tên tuổi, trong đó có Chế Lan Viên. Việc lấy toàn
những chuyện người ta tếu táo với nhau lúc trà dư tửu hậu, những lời nhận xét
chê bai nhau đầy cảm tính ích kỷ, đầy thành kiến méo mó, đầy đố kỵ nhỏ nhen…
thành tác phẩm để đời, thật là một hành động phi khoa học và vô văn hóa!
Còn được gần Chế Lan
Viên, tôi thực sự ngạc nhiên khi nhận thấy ở ông có một tấm lòng nhân hậu đến
hồn nhiên. Ông bảo vì quý Yến Lan nên ông đã đặt bút danh mình có chữ Lan. Là
một nhà thơ lớn nhưng ông không khụng khiệng kiểu cách mà giản dị như những
người bình thường, ông làm tất cả các việc vặt, từ đun nước tắm cho con, tưới
cây, cho gà, cho lợn ăn, đào ao thả cá… Đặc biệt ông rất chung thủy, yêu thương
và lo cho sự nghiệp của bạn bè, ông lo viết tựa giới thiệu thơ cho người này
người nọ (hồi tôi gặp, ông viết cho Hàn Mặc Tử, Hoàng Trung Thông và Trần Nhật
Thu…). Ông lo in tuyển tập cho người bạn thơ ông rất quý là Hàn Mặc Tử, chính
tôi đã chở ông bằng xe đạp đến nhà thi sĩ Mộng Tuyết ở đường Nguyễn Trọng
Tuyển, Tân Bình để chép tập Gái quê
đưa vào tuyển tập. Hôm ấy ngồi chép, tôi rất cảm động khi nhìn Mộng Tuyết và
Chế Lan Viên ngồi uống trà đàm đạo, để được vậy, tình bạn thơ của họ đã vượt
qua cả một khoảng thời gian mấy chục năm và qua cả một cuộc chiến đầy máu lửa.
Ông cũng là người rất trân trọng người viết trẻ, những cái mới. Hồi ấy ông quý
tôi và anh Nguyễn Thái Sơn về thơ, ông quý Nhật Chiêu dịch thơ Hai-cu Nhật, quý
người bạn cũ là Khổng Đức dịch Từ Tống và những người khác mà tôi không biết.
Một điều nữa về Chế Lan Viên cũng cần phải nói
đến, đó là gần đây những người chống chế độ đã nhân việc Chế Lan Viên làm mấy
bài: Bánh vẽ; Trừ đi; Ai? Tôi? đã cho
ông là sám hối, quay lại chống Đảng, chống Nhà nước. Thơ ca vốn đa nghĩa, nhất
là thơ của một trí tuệ cỡ Chế Lan Viên, lại viết bằng ngôn ngữ tượng trưng,
không nói cụ thể điều gì mà chỉ gợi. Nên việc lái ý thơ Chế Lan Viên thành
chống đối không khó. Có điều, việc làm trên đã không chỉ hạ thấp nhân cách mà
còn hạ thấp cả văn chương Chế Lan Viên. Bởi một thi sĩ lớn như ông nói riêng và
những nhà sáng tác chân chính nói chung, người ta viết vì một sứ mệnh lớn lao
mang tính nhân bản, nhân văn và vì sự tiến bộ của loài người nói chung, chứ đâu
có lại biến tác phẩm của mình thành thứ công cụ xỏ xiên tầm thường! Có kẻ, ở ngay “phe ta”, còn định
đôn cô con gái cưng của ông, nhà văn Vàng Anh, thành “ngọn cờ đổi mới”, chống lại chính ông nữa. Riêng tôi, đọc những bài
thơ “chống đối” trên, lại thấy yêu mến ông trọn vẹn hơn, thấy ông đúng là một
thi sĩ chân chính, đã không viết một chiều, không tô son trát phấn cho những
sai trái, những mục ruỗng mà cuộc sống của con người, vì không phải là Thiên
Đường, nên không thể không có. Ở đó vẫn còn có những lời nói chưa đi đôi với
việc làm, có những tư duy mà ngôn từ chính trị đã tự phê là "duy ý
chí " (Bánh vẽ) ; Ở đó
vẫn còn có đây đó những người lính từng quên mình xông pha trong trận mạc trở
về sau chiến tranh chưa được xã hội quan tâm đúng mức (Ai? Tôi?) ; và như một lời bộc bạch, ông đã tâm sự rằng có một
thời, vì cái chung lớn lao hơn cả văn chương là sự thắng lợi cuối cùng của cuộc
chiến, thế hệ ông chưa thể viết được một cách trọn vẹn về cuộc sống (Trừ đi).
Nói chung về thơ Chế
Lan Viên, mỗi giai đoạn ông đều có những bài đỉnh điểm. Ngoài những bài đã nhắc
trong Ánh sáng và phù sa còn có Sao chiến thắng; Con cò; Tổ quốc bao giờ đẹp
thế này chăng?; Ngày vĩ đại; Thần chiến thắng… và giai đoạn sau ông có Từ thế chi ca.
Nói đến cái chết của
ông, trong tôi lại hiện về biết bao tình cảm. Những lời nói, những hình ảnh của
ông trở thành những kỷ niệm không bao giờ quên. Ông thường bảo tôi đi dự những
buổi ông nói chuyện, khi ở Trường Tổng hợp, khi ở Phát hành sách… Trong đêm thơ
của ông ở nhà Văn hóa Phú Nhuận, khi Thúy Vinh ngâm xong bài Con cò, mọi người vỗ tay như sấm, ông
nói nhỏ với tôi: “Thì ra mấy người nổi
tiếng lại ngâm không hay bằng cô này”. Trong đám cưới Thắm, con gái ông,
ông mời không nhiều, vậy mà ông cũng mời vợ chồng tôi; còn tôi thì coi như
người nhà có nhiệm vụ khuân bia hơi từ ngoài đường vào nơi làm đám cưới ở Thư viện Thành phố Hồ
Chí Minh. Một lần chở nhà thơ Anh Thơ lên thăm ông, thấy ông đang cởi trần bắt
cá ở cái ao nhỏ sắp cạn trong vườn. Ông chỉ bắt được những con đã ngắc ngoải
hoặc đã chết. Tôi liền xuống bắt cá cùng ông. Hai chú cháu một hồi bắt sạch cả
ao cá…
Thế rồi sau cái buổi
sáng ông đi an dưỡng ở Bệnh viện Chợ Rẫy đó, tôi đã đau đớn chứng kiến toàn bộ
bao nỗi hy vọng thất vọng đan xen nhau, bóp nghẹt tim ông, làm âu lo và buốt
đau bao trái tim những người thân yêu, những đồng nghiệp, và những độc giả. Tôi
đã được chứng kiến giây phút người ta đưa ông ra khỏi phòng mổ, sau một một
cuộc đại phẫu, ông nằm bất động, mặt sưng vù, nặng nhọc thở với phần phổi còn
lại. Tôi cũng chứng kiến chứng di căn quái ác đã gặm mòn cơ thể, làm méo dần và
cuối cùng làm mất hẳn tư duy ông. Câu cuối cùng tôi được nghe ông nói với tôi
là về chuyện bắt cá: “Tôi vẫn nhớ tôi với
ông cùng bắt cóc (ý ông nói bắt cá). Tôi đã làm cho ông một hũ mắm mà ông không
lấy”. Khi ấy tôi đang làm chủ nhiệm đề tài chiết xuất thuốc chống ung thư,
biết bệnh ông đã ở giai đoạn không thuốc nào chữa được, nhưng tôi vẫn lấy trộm
một chai dịch chiết thuốc đưa cho cô Thường. Người ta còn mách cô cho ông uống
phương thuốc bột than xác một loại rắn. Nhưng tất cả đều vô hiệu. Lần cuối cùng
tôi chở anh Hoài Anh lên thăm ông. Lúc này, từ đỉnh cao thông minh, ông đã
thành người vô thức. Ông ngồi, hai tay giơ trước mặt trong tư thế đọc báo ngày
xưa. Vàng Anh nhét vào tay ông tờ báo. Ông ngơ ngác đọc theo phản xạ mà không
đọc gì cả. Rồi đến một chiều, đang ăn cơm, tôi chợt thấy hình ông trên màn hình
ti-vi, bát cơm trên tay tôi rơi xuống, tôi nói với vợ cái tin hệ trọng: “Chú Chế Lan Viên mất rồi!”. Trong ngày
liệm, tôi vội vàng đến phòng tang lễ Bệnh viện Thống Nhất để nhìn mặt ông lần
cuối. Khi người ta mang thi thể ông ra khỏi ngăn lạnh, tôi thấy mặt ông quắt
lại như già đi cả ngàn tuổi. Người ta đã trải cho ông một tấm nệm rất dầy, rất
êm bằng trà và bông gòn trong chiếc quan tài tốt. Ông nằm trong quan tài mà như
nằm trong mây ở tận chín tầng trời. Nhìn ông, tôi bỗng nhớ đến hai câu thơ của
Hàn Mặc Tử mà ông đã trích dẫn, mở đầu cho bài tựa mà ông đã viết:
Một mai kia ở bên khe nước ngọc
Với sao sương anh
nằm chết như trăng
Tôi
chưa được thấy những câu thơ viết về cái chết lại đẹp đẽ sang trọng như thế bao
giờ!
Lúc
này tôi thấy những hạt nước đóng băng trên trán ông đã chảy ra trông như những
giọt mồ hôi, những giọt mồ hôi của cả một đời lao lực. Để viết nên những câu
thơ đẹp nhất, ông đã một đời tha hương, vượt qua nỗi buồn, qua máu lửa, qua
gian khó, qua bệnh tật, qua những mối quan hệ lắm rắc rối của người đời. Tôi đã
vĩnh biệt ông bằng cách lau đi trên trán ông những giọt lao lực ấy!
Trong
lễ hỏa táng, tôi đứng trước cửa lò, bên phải là Thắm đang lom khom coi và kêu
lên khi thấy lò bên cạnh rừng rực lửa. Còn bên này tôi cũng thấy ngọn lửa trùm
lên quan tài ông. Tôi như thấy linh hồn ông bay lên theo ngọn lửa, vĩnh biệt
cái cõi thế có lắm đam mê, lắm niềm vui, nhưng cũng nhiều đau khổ và cực nhọc
này!
Bình Thạnh, 1998
Viết thêm, 31-12-2008