Tôi
vừa mới nhận được cái giấy mời đi họp Đại hội Hội Nhà Văn TPHCM:
Lại nhớ
đến Chế Lan Viên vì nếu ông không đứng tên giới thiệu tôi vào Hội này thì đến
nay chưa chắc tôi có giấy mời. Nếu tài năng trong văn chương có thể đo đếm
được và người ta buộc phải dựa vào đó mà xét thì tôi tin cửa ải nào của văn
chương tôi cũng vượt qua được. Tiếc là lĩnh vực văn chương chữ viết lại đi
đôi với chữ lách mà với chữ lách thì tôi không có một xu khả năng nào. Tôi
vốn thích Khoa học Tự nhiên nhưng văn chương lại là số mệnh, mà đã là số thì
có chạy đằng trời cũng không thoát được. Cũng vì thế mà tôi mới được gặp ông
Chế, một điều không tưởng và trước đó tôi không bao giờ nghĩ đến. Theo
Đạo Phật đó chính là Nguyên lý Duyên khởi. Người xưa cũng đã đúc rút ra cái điều tương tự: Hữu duyên
thiên lý năng tương ngộ / Vô duyên đối diện bất tương phùng. Cuộc đời mỗi
người tất phải gặp biết bao người nhưng ai sẽ là người neo lại với ta thành thân thiết, tri kỷ?
Còn
giới nhà văn? Bây giờ với cuộc sống tiêu thụ và nền văn minh vật chất, không
biết lớp trẻ nghĩ về văn chương nghệ thuật như thế nào? Còn trước đây văn
chương nghệ thuật được coi là đền đài thiêng liêng. Mỗi bước đi của văn nhân, thi sĩ như có ánh hào quang. Hồi chiến tranh nhà văn, nhà thơ là chiến sĩ, đến
chú bé Trần Đăng Khoa làm thơ cũng trở thành "một cây chông" diệt Mỹ, vì thế mà văn chương nghệ thuật đúng là đã góp công lớn vào chiến thắng. Thời đó văn
chương đúng là chánh pháp. Còn tôi một người làm khoa học viết văn đã là lạc
loài rồi, mà sau giải phóng kinh tế mới là mục tiêu tối thượng, nên văn chương thời đó đúng là thời mạt pháp. Trần Độ và Nguyên Ngọc lại không hiểu điều này nên đã có tham
vọng mở một mặt trận mới văn hóa văn nghệ, còn ra được cả một nghị quyết. Có điều hai ông muốn đổi mới nhưng lại đi lộn
ngược. Những tác phẩm xét lại cuộc chiến, xét lại lãnh tụ, xét lại cả lịch sử
được coi là thành tựu, được coi là mới; những cách viết phản thẩm mỹ và luân thường đạo
lý được coi là thi pháp mới. Vì thế mà những người có trọng trách của thể chế
đã “tuýt còi”. Nhưng thật lạ lùng là đến tận hôm nay trắng đen vẫn lẫn lộn,
thiện ác vẫn bất minh.
Riêng
tôi thấy có một sự thật trần trụi hơn nhiều. Nếu thế giới dân chủ, tự do, nhân quyền được "đội lên đầu" không giầu có như Mỹ, Anh, Pháp, Đức, Ý, Nhật mà nghèo như châu Phi thì chắc chắn sẽ không có chuyện “đổi mới” văn chương của Nguyên Ngọc và không có chuyện đấu tranh vì nhân quyền,
dân chủ, ba lăng nhăng như đã điễn ra ở nước ta trong những năm vừa qua.
Còn
tôi tự tin rằng, với tư cách một người viết, tôi đã đổi mới văn chương thực sự, về
nội dung, về ý tứ. Có điều văn chương nghệ thuật lại có tính khắc nghiệt. Một tác
phẩm có giá trị nếu được đóng khung, được treo trang trọng trong viện bảo tàng, người ta sẽ thấy nó
đúng là có giá trị, còn không, nó cũng chỉ như cỏ rác mà thôi. Như tranh Van Gogh bây giờ hàng trăm triệu đô một bức
nhưng hồi ông còn sống chỉ bán được duy nhất một bức có 40 đô thôi!
Hôm
nay tôi sẽ đăng lại cái truyện ngắn Lễ
tưởng niệm là truyện thứ hai hay thứ ba gì đó của tôi. Truyện này không hiểu sao lại có
duyên với chữ Trẻ vì được đăng lần đầu trên báo Tuổi trẻ (cũng là lần duy
nhất) rồi sau đó trên Văn nghệ Trẻ của Hội Nhà Văn VN. Còn nhớ hôm cô Anh Thơ
viết thư giới thiệu tôi đến Nguyễn Khải, người được coi là Chế Lan Viên trong
văn xuôi, tôi đã mang theo 3 truyện ngắn, trong đó có truyện trên. Tôi xé tờ
lịch ghi: “Hôm nay đi gặp Nhà văn Nguyễn Khải”. Sau khi đọc xong, Nguyễn Khải
bảo: “Cả đời người viết may ra viết được vài cái như thế này. Công nhận cái
gì thực thì vẫn hay”. Tôi bảo: “Không thực đâu. Em bịa đấy”. Nguyễn Khải: “Bịa
thế mới tài chứ”. 1986, tôi cũng gởi truyện này dự cuộc thi của Hội Nhà văn
TPHCM, Nhà thơ Vũ Ân Thy có trong ban tổ chức thế nào đó đã mời tôi đến
tòa báo để “xem mặt” rồi còn mời tôi đến nhà chơi nữa. Nhà Văn Trần Thanh Giao trong
ban giám khảo gọi điện cho cô Anh Thơ bảo: “Truyện của thằng Đông La được
giải đấy” (Cuối cùng không được!).
Cũng
như cái truyện đầu tiên tôi viết Chuyện
về hai người từ hơn 30 năm về
trước, cái truyện tôi đăng hôm nay cũng còn nguyên tính thời sự nóng hổi. Vì
tham vọng quyền chức, kẻ dốt ác chỉ muốn người tài đức chết đi. Xã hội chúng
ta đã và sẽ còn khổ vì loại cán bộ như thế. Sứ mệnh của nhà văn cần phải chỉ
ra điều đó, đó chính là loại văn chương có tư tưởng. Tôi cho cái hay cái mới là cái tầm tư tưởng đó chứ không phải là loại
văn chương "mây trăng hoa lá", hoặc ngược lại, là loại văn chương bố láo, bố toét!
10-6-2015
ĐÔNG LA
|
Ngay từ sáng sớm, khi
tôi đang lúi húi làm thí nghiệm bỗng bà Kim, trưởng phòng cung tiêu, thư ký
công đoàn viện, một người tướng đàn ông có dáng đi chữ bát ngửa hềnh hễnh lừng
lững vào phòng. Bà hỏi tôi với vẻ sốt sắng:
- Làm gì mà cặm cụi
một mình sớm thế cậu? Cô Nhạn đã đến chưa?
- Cô ấy đi họp ngoài
Hà Nội cơ mà?
- À, thế mà tôi lại
quên mất. Này cậu này, tôi báo cho phòng cậu biết một tin buồn: Ông Huấn chết
rồi! Ông ấy bị ung thư dạ dày. Bệnh này mà để đến giai đoạn cuối phải đi cấp
cứu như thế thì cậu bảo làm sao mà sống được! Anh Đức họp ngoài ấy đã điện cho
tôi…
Trời ơi! Tôi không còn tin vào đôi tai của mình nữa, mặc dù tôi
cũng biết lắm tình trạng nguy kịch của bác viện trưởng. Hôm ông đòi đi Bắc điều
trị tại bệnh viện Việt Xô, thực ra không chỉ vì muốn được các giáo sư là bạn
ông mổ, mà còn vì, nếu không qua khỏi thì ông muốn được chết trên quê. Thể
trạng ông đã quá yếu. Hàng tuần lễ ông ăn cái gì vào cũng ói mửa hết. Trông ông
không khác gì một thây ma gầy trơ xương, xám xịt. Và mới chiều qua thôi, khi
nhận được điện, anh con trai đã cho tôi biết: Khi bác sĩ vừa rạch lớp da bụng,
dạ dầy của ông chợt phồng tướng lên như chiếc bong bóng cao su của trẻ em khiến
cho các bác sĩ chủ chốt phải tập trung lại hội chẩn. Tuy vậy, tôi vẫn còn hy
vọng mong manh. Bởi người trực tiếp mổ cho ông là một giáo sư đầy kinh nghiệm,
một nhà khoa học danh tiếng; chính ông đã đưa ra phương pháp cắt dạ dày hổng tràng đã được giới Y học thế giới đánh giá
cao. Có lẽ nào… Việc bác viện trưởng mất đi, với chúng tôi, những kỹ sư mới của
viện, không chỉ có tình cảm tiếc thương đơn thuần mà còn mất đi một chỗ dựa.
Mất ông, chúng tôi có khác gì như rắn mất đầu. Một nỗi trống vắng bỗng tràn
ngập lòng tôi. Tôi cảm thấy mình như một chú bé con trong đêm rừng sâu, theo
một người thợ săn lành nghề, bất thần một con hổ nhảy ra vồ mất người thợ săn
ấy.
Tôi chưa kịp hỏi lại
cho rành rẽ câu chuyện thì bà trưởng phòng cung tiêu đã đi ngay, dáng vội vã.
Có một vẻ gì đó rất tích cực, sốt sắng trong bộ dạng của bà ấy. Bà ta vốn là
một dược tá, cũng dân Bắc đi B đàng hoàng, cùng cơ quan với ông viện phó hồi ở
rừng. Vì thế, tất nhiên bà ta thuộc phe ông viện phó.
Nghĩ mà thương bác
viện trưởng quá. Cuộc đời ông với bao tâm huyết mà gần như ông chưa làm được
việc gì trọn vẹn. Ông kể:
“Có thời tớ đi xây một
nhà máy tại Việt Trì, xây gần xong thì mấy thằng phi công Mỹ lại tặng cho mấy
quả bom, thế là xong. Đểu thế!”. Rồi: “Có hồi xí nghiệp mình, có cậu làm công
đoàn mình bồi dưỡng cho thành anh hùng. Thành anh hùng rồi cậu ấy lại chơi lại
mình. Trò đời đúng là hay thật”. Khi thành lập viện này, ông mừng lắm. Chính phương
án thành lập viện là của ông. Nghe nói nước ngoài còn viện trợ hàng mấy triệu đô để ông thực hiện nó. Có lần ông
nói: “Cậu có biết trong chuỗi phản ứng bán tổng hợp từ Diosgenin có một phản ứng phải cần đến công nghệ
sinh học không? Công nhận mấy con vi khuẩn hay thật, có bao nhiêu vị trí trên
cái khung steroidmà nó lại
gắn đúng cái nhóm chức mình cần vào đúng cái vị trí mình cần! Hay thật”. Ông đã
gần 60 tuổi. Đối với các nhà khoa học làm việc chủ yếu bằng kinh nghiệm và trí
tuệ thì tuổi này còn đang xoan. Nhưng sức khỏe ông lại không được tốt. Căn bệnh
dạ dầy đã gặm mòn cơ thể ông. Có lẽ việc thành lập viện, rồi ông được về làm
viện trưởng sẽ là cơ hội cuối cùng để ông thực hiện những ước nguyện của cuộc
đời mình. Không ngờ…
- Cậu này!
Tôi giật mình. Mải suy
nghĩ nên tôi không biết bà trưởng phòng cung tiêu đã quay lại. Bà tiếp:
- Cậu này, lúc nãy tôi
quên mất không nói, tôi muốn cậu đi đặt cho cơ quan một cái vòng hoa lớn. Cậu
ra ngoài chỗ Lê Lợi ấy, ngoài đấy có nhiều lắm. Nhớ đi ngay rồi về. Chiều nay
công đoàn họp bàn kế hoạch làm tang lễ cho ông ấy. Chiều nay anh Đức cũng đã
về, xem binh tình ra sao. Mai cơ quan sẽ tổ chức.
Nói rồi bà xăng xái bỏ
đi ngay.
Tôi không nhớ là mình
có nhận lời không, chỉ thấy khi nhìn vào đôi mắt ti hí, dưới đôi mi mắt nhẵn
bóng, hùm hụp của bà ấy, tôi không chịu được. Không biết có phải do có thành
kiến hay không mà tôi nhìn thấy một nụ cười mỉm, một niềm vui man rợ trong cái
vẻ trang nghiêm của bà ta. Một con người mà trí tuệ thì rất nghèo nàn song thủ
đoạn lại hết sức giầu có. Ai cũng biết, sau lần bác viện trưởng phát biểu: “Tôi
chỉ muốn mọi người cùng nhau làm việc hết mình để sớm đưa ra được những quy
trình tối ưu. Tôi nghĩ chính cái quy trình sản xuất sẽ sắp xếp đúng đắn vị trí
của từng người”. Bà ta đã tỏ ra rất hằn học. Nếu ông viện phó là tổng chỉ huy
thì bà là một chiến tướng hùng hổ nhất trong vụ đấu đá này. Bà đã tụ tập tất cả
những nhân vật mà bộ máy hành chính cồng kềnh của thời ông Đức từng đẻ ra,
những người có nguy cơ không giữ nổi chiếc ghế của mình vì không tìm được chỗ
đứng trong cái quy trình nghiêm khắc và khó tính kia. Bà đã tổ chức một cuộc
họp công đoàn, thực chất là họp với quân của bà, rồi đưa ra một bản tố cáo bác
viện trưởng gồm 10 điểm với rất nhiều chữ ký. Sau đó lại còn kiến nghị với bộ,
đưa viện nghiên cứu này trở lại là xí nghiệp sản xuất như cũ.
Không biết có phải tại
việc làm độc hại này cùng với việc một người con bị tai nạn của bác mới bị mất
đã tiếp tay với căn bệnh ung thư quỷ quái giết chết bác viện trưởng hay không?
Ông đã vĩnh viễn ra đi, mang theo bao dự định dở dang và những tâm sự nặng nề…
Tôi chợt nhớ đến việc
bà trưởng phòng cung tiêu nhờ, mà tôi cũng muốn mình được làm công việc này.
Trong mấy đứa về viện ông có gần gũi với tôi hơn. Bà vợ ông thì quý tôi ra mặt.
Bà không đến viện bao giờ, cũng không biết chúng tôi làm gì, nhưng đi đâu bà
cũng tuyên bố tôi là đứa giỏi nhất viện. Khi người ta có cảm tình với ai thì
rất dễ có thiên vị. Tôi xuống phòng đọc tài liệu ở tầng dưới, nói với mấy đứa
phòng tôi đang đọc sách:
- Bác Huấn mất rồi! Bà
Kim phòng cung tiêu đã báo cho tớ thế.
- Ổng bị bao tử, sao
mất được? - Nghiêm ngạc nhiên.
- Trời ơi! Tội nghiệp
bác ấy quá! - Thư kêu lên.
Tôi rủ Công:
- Bà Kim nhờ tao đi
đặt một cái vòng hoa lớn, tao với mày đi đi.
Công đồng ý. Hai đứa
chúng tôi chở nhau ra đại lộ Lê Lợi. Đến nơi, chúng tôi thấy bên những
ki-ốt bán cá cảnh, cây cảnh, người ta bày bán rất nhiều vòng hoa. Một bà
đang kết hoa, khung và vòng ngoài cùng là những cành đủng đỉnh, cành măng màu
xanh rất tươi, phía giữa là đủ các loài hoa rực rỡ. Bà ấy nói với chúng tôi,
nếu người mất mà chưa có gia đình thì kết một vòng toàn cúc trắng, còn đã có
rồi thì lấy vòng nhiều màu cũng được. Tôi đặt bà kết một vòng thật lớn, nhưng
chỉ có hai mầu thôi, gồm những vòng bông màu trắng xen kẽ những vòng bông màu
đỏ. Tôi tự gán cho chúng những ý nghĩa. Màu trắng tượng trưng cho cuộc đời
trong sạch, thanh khiết, còn mầu đỏ tượng trưng cho cuộc đời say mê làm việc,
suốt đời phấn đấu cho sự nghiệp của bác viện trưởng. Thỏa thuận xong chúng tôi
về viện.
Về đến nơi, tôi thấy
chị bí thư chi đoàn đang chỉ huy mấy người chuẩn bị phông màn, cắt chữ, lồng
ảnh… trang trí cho buổi lễ tưởng niệm. Bà Kim thì đi đi lại lại, lúc chỗ này,
lúc chỗ khác, luôn giữ vẻ mặt nghiêm trang của một chủ tang gia. Bà nói với bí
thư chi đoàn:
- Cô Tuyết này, phải
kiếm một cái bình nhang lớn. Khoa học khoa khiếc gì thì cũng phải có hương có
khói chứ.
Đến chiều, chúng tôi
đi lấy vòng hoa về, để tạm trên một chiếc bàn. Bà Kim trông thấy liền nói:
- Sao các cậu không
đặt làm một cái nhiều mầu cho nó đẹp, lại chọn cái chỉ có hai mầu chòng chọc
như thế này!
Chúng tôi im lặng
không nói gì.
Sau đó, với tư cách
thư ký công đoàn viện, bà triệu tập một cuộc họp gồm một số cán bộ hành chính,
cán bộ đoàn thể và mấy đứa nghiên cứu chúng tôi.
Bà nói:
- Tôi xin thông báo
cho anh chị em được rõ, hôm qua anh Đức ngoài Hà Nội đã điện cho tôi biết là
tình hình đồng chí viện trưởng rất xấu, đồng chí đã bị ung thư rất nặng, đã ở
giai đoạn cuối, nên đã không qua khỏi. Đơn vị chúng ta là cơ quan đầu ngành,
lại là viện nghiên cứu, nên tôi muốn chúng ta tổ chức một lễ tang thật long
trọng để tưởng niệm đồng chí viện trưởng, một nhà khoa học đã có nhiều công lao
đóng góp cho sự phát triển của ngành Dược chúng ta. Cũng là để cho các xí
nghiệp họ nhìn vào. Tôi muốn chúng ta chuẩn bị sẵn sàng, đâu vào đó, chỉ lát
nữa anh Đức sẽ ở ngoài Hà Nội vào, ảnh sẽ chỉ đạo thêm. Tôi đã cho lái xe đi
đón ảnh…
Bà ấy nói rất nhiều,
rồi một số người phát biểu này nọ. Tôi chán không muốn nghe, thấy trong lòng
trĩu nặng. Tôi nhận thấy vẻ côi cút trên khuôn mặt bạn bè. Rồi thời gian sẽ
trôi đi vào trong lãng quên của người đời, nhưng tôi tin là sẽ có không ít
người vẫn giữ được những kỷ niệm sâu nặng về những ngày làm việc cùng ông.
Trong lòng tôi cũng dậy lên niềm chua xót khi nhận thấy có những bộ mặt trang
nghiêm giả tạo, vẻ buồn đau giả tạo. Ánh mắt họ chạm nhau đầy ẩn ý.
Chợt tôi thấy phía sau
lưng, ngoài hội trường, có người đi vào. Tôi quay lại thì thấy ông Đức và cô
Nhạn, trưởng phòng của chúng tôi. Hai người mới ở sân bay về, mặt cô Nhạn còn
đỏ lịm vì nắng. Thấy tôi, cô ngạc nhiên hỏi:
- Trời đất! Cơ quan có
chuyện chi vậy em?
- Công đoàn họp bàn,
chuẩn bị làm lễ tưởng niệm bác Huấn, cô.
Tôi thấy vẻ mặt cô vô
cùng ngạc nhiên. Còn ông viện phó thì lẩm bẩm:
- Trời ơi! Thế này thì
bả giết tui rồi!
Tôi ngạc nhiên chưa
hiểu chuyện gì thì thấy cô Nhạn đi rất nhanh lên phía trên hội trường. Tôi thấy
mặt bà trưởng phòng cung tiêu chợt biến sắc. Bà lúng túng trong miệng câu gì
đó. Cô Nhạn cầm micro nói lớn:
- Tôi xin báo cho anh
chị em biết một tin mừng. Đồng chí viện trưởng của chúng ta vẫn còn sống. Tuy
phải cắt gần hết bao tử trong lúc thể trạng vô cùng nguy kịch, chết đi sống lại
nhiều lần, tin ảnh chết quả là có lan ra ngoài nhưng thực tế đến nay ảnh vẫn
còn sống. Với sự tận tình cứu chữa của những giáo sư là bạn của ảnh nên ảnh đã
qua khỏi. Với những phương pháp điều trị rất mới, các giáo sư nói ảnh sẽ về làm
việc bình thường nay mai. Sức khỏe sẽ còn khá hơn trước nhiều nữa. Bữa nay,
trước khi lên máy bay, tôi có đến thăm ảnh. Tuy không được gặp vì ảnh còn nằm
phòng cách ly, nhưng…
Tôi đang sung sướng
lắng nghe thì lại thấy có tiếng ai đó đang lầm bầm sau lưng:
- Làm sao lại như thế
anh?
- Thì tôi mới điện ổng
bị ung thư nặng, chắc chắn là chết, chớ nói ổng chết hồi nào!
- Nhưng… nhưng… anh
cũng còn nói cứ chuẩn bị là vừa…
- Thôi đi, thôi đi…
Tôi nói chuẩn bị là chuẩn bị tinh thần chứ ai bảo bà làm như vầy!
Tôi quay lại thì nhìn
thấy hai bộ mặt đang cúi xuống, bì bì. Một bộ mặt vuông chữ điền xám xịt của bà
trưởng phòng cung tiêu, bên cạnh, trên một thân hình loắt choắt, là một bộ mặt
trắng bủng xanh mét hình tam giác của ông viện phó. Trong câu chuyện này, có
thể công nghệ viễn thông còn yếu kém có lỗi một phần. Nhưng tôi vẫn rất ngạc
nhiên trước hành động của họ.
Tôi bỗng cảm thấy ghê
tởm những con người này, bởi niềm vui và nỗi buồn của họ cũng nguy hiểm và độc
hại như những hành động mà họ gây ra. Chính chúng là những động lực cho những
hành động ấy.
Lúc này, phía trên hội
trường, tấm phông đã được kéo lại. Mấy cô kỹ sư trẻ của phòng tôi thì đang
tranh nhau xé tung vòng hoa, chia hoa cắm vào mấy cái erlen thủy tinh thành
những bình hoa nhỏ. Anh chàng quản đốc phân xưởng sản xuất thử đang hét tướng
lên, đòi viện phó chi tiền mua thuốc lá, bánh kẹo về liên hoan.
Còn tôi, trong niềm
vui vô bờ, sao vẫn cứ dậy lên, dậy lên một nỗi buồn xót xa.
ĐÔNG LA
TPHCM
Viết 6/1984