ĐÔNG LA
SÂU LẮNG VÀ MỀM MẠI NHỮNG
TRANG THƠ
CỦA NỮ THI NHÂN VIỆT NAM
Cầm
trên tay hai cuốn sách nặng trĩu “Phái
đẹp cuộc đời và cây bút” in tuyển tập thơ, văn của các nhà văn nữ Việt Nam,
vì thời gian chỉ có mấy ngày, nên tôi thấy chỉ có thể viết được về phần thơ
thôi. Đơn giản là vì thơ ít chữ nhưng lại khó viết, nhất lại là thơ của phái
nữ, với thiên tính nhạy cảm, ý nhị và tinh tế…
Vốn
là một cán bộ ở một viện nghiên cứu số phận đưa đẩy tôi đến với văn chương, như
mắc thói quen nghề nghiệp, tôi đã đến với văn chương không chỉ bằng cảm tính mà
bằng cả lý tính, nên về thơ tôi đã luôn đặt câu hỏi “Thế nào là thơ hay?”. Tôi đã tìm câu trả lời từ Chế Lan Viên. Một
nhà thơ tài năng hàng đầu và thông thái như Chế Lan Viên, câu thơ như thế nào ông
sẽ cho là hay? Trong bài “Nói chuyện thơ
đầu xuân” trong cuốn tiểu luận của ông Nghĩ
cạnh dòng thơ (Nxb. Văn Học, 1981), Chế Lan Viên đã chọn hai câu của Xuân
Diệu: “Ngày hóa bếp hồng em chụm thổi/
Đêm thành lụa tuyết để em thêu” để khen là “văn chương tuyệt vời đẹp đẽ”. Đúng là cách dùng ngôn ngữ hình ảnh
tuyệt vời, chỉ một nhà thơ giàu trí tưởng tượng cỡ Xuân Diệu mới có thể viết ra
được như thế. Nhưng Chế Lan Viên cũng thích những câu thơ rất thực, không có
một chút tưởng tượng nào cả, tôi không nhớ ông nói trực tiếp với tôi hay viết
trong một cuốn sách nào đó hai câu: “Tay trồng cây
cửu lý hương/ Ba năm hai lá người thương gội đầu”. Như vậy hai câu này hay
ở cái ý chứ không phải ở ngôn ngữ. Chàng trai phải yêu cô gái đến như thế nào
mới kỳ công bỏ ra cả 3 năm trồng cây để lấy được chỉ có hai cái lá thôi cho
người yêu. Còn với ngôn ngữ thơ Chế Lan Viên, tôi từng nói thẳng với ông: “Cháu
rất thích cái câu này của chú: “Cánh của
cò hai đứa đắp chung đôi”; lấy cánh cò thực đắp đã là lạ rồi còn cánh cò trong
câu thơ của chú lại ở tận trong lời ru cơ”. Ông có vẻ khoái chí nói với tôi:
“Con Thắm, con Thắm đó”, ý là ông viết về Thắm, cô con gái của ông.
Từ
vốn liếng ban đầu đó, đến nay tôi viết cả đã in và chưa in đến vài ngàn trang
phê bình rồi, vậy mà hôm nay vẫn cảm thấy bối rối trước những trang thơ của
những nữ thi nhân Việt Nam .
Biết là thơ chọn bài nào cũng có cái hay nhưng viết phê bình không ai có thể
viết hết ra được, nên tôi chỉ có thể viết đôi dòng cảm nhận về những bài thơ,
những câu thơ gây cho tôi ấn tượng nhất mà thôi. Để khách quan tôi sẽ bắt chước
vòng giấu mặt của cuộc thi hát trên truyền hình, đọc thơ trước rồi mới xem tên
tác giả sau.
Nhà
thơ Bùi Kim Anh, tác giả đầu tiên của cuốn sách, có bài lục bát “Gánh buồn đem bán chợ vui”. Bài thơ có
phong vị ca dao, có chút kịch tính, chị viết về nỗi buồn nhưng lại có nét vui,
hóm hỉnh, hài hước. Hai câu kết:
Gánh buồn đem bán chợ vui
Những tưởng ế lại lời ơi là lời
Đọc
thật thú vị, nhà thơ thật tinh tế khi chỉ ra trong chuyện tình cảm có những
điều phi lý mà có lý. Nỗi buồn của con người, nếu có sự đồng cảm, sẻ chia của
người thân, của bạn bè, nó sẽ được hóa giải. Nhà thơ dễ dàng “bán” đi được nỗi
buồn của mình và cái “lời ơi là lời”
chính là sự vui lây niềm vui của mọi người, nhận được tình cảm của mọi người.
Một
nhà phê bình để thẩm định toàn diện và khách quan một bài thơ người ta phải
vượt lên trên cảm tính cá nhân, phải thẩm định bằng cả nền tảng tri thức và cái
khó hơn là sự trải nghiệm. Nữ thi sĩ Đặng Nguyệt Anh có bài “Rừng Miền Đông và con gái tôi”. Với
những người chưa từng trải qua những năm tháng gian khổ và ác liệt trong chiến
trường thật khó mà đồng cảm được một cách sâu sắc với tác giả. Tên bài thơ xem
chừng chả có thơ mộng gì hết, nhưng tôi với tư cách một người cũng có một năm ở
chiến trường thì thật xúc động khi đọc bài thơ. Ngày nay, nhất là ở các đô thị,
các bà mẹ trẻ sinh nở được chăm sóc “đến tận răng”, nhưng với Đặng Nguyệt Anh
thì:
Rừng
Miền Đông
Là nơi
chôn nhau cắt rốn của con
Dù
vậy không thiếu niềm vui và sự rạng rỡ chào đón một sinh linh mới chào đời:
Chọn
một bình minh mùa hạ
Con ra
đời
Sáng
nay tiếng chim rừng ríu rít
Nắng
chan hòa mặt đất
Trời
xanh hơn mọi ngày
Bố con
mừng cuống quit
Mọi
người trong cứ đều vui
Nhưng:
Lần
đầu tiên làm mẹ
Nâng
niu con trên tay
Hạnh
phúc tràn nước mắt
Mẹ lo
ngày mai sao đây?
Người
mẹ trẻ làm sao không lo cho được khi “Con
thì bé bỏng quá chừng!/ nhà lại không phên, không vách/ xung quanh con rất
nhiều thế lực”.
Chữ
“thế lực” đọc thấy vui mà thật hay,
bởi với người mẹ trẻ thì tất cả những gì có thể gây hại cho con, dù to, dù nhỏ,
đều là “thế lực” như kẻ thù cả:
Mẹ
sợ con rắn độc
Mẹ lo
con kiến bọ nhọt
Con rết
rừng to hơn ngón chân
Con bò
cạp sao mà ác thế
Lũ ve, lũ
vắt, muỗi rừng…
Đêm nay
Trời không
trăng không sao
Biết đâu lũ
biệt kích
Biết đâu giặc
lại đi càn
Mẹ sợ cơn mưa
rừng
Mẹ thương con
đang sốt
Tắc kè bò
trên mái trung quân làm mẹ hoảng hốt
Con sóc rung
cây mẹ cũng giật mình
Đọc những câu thơ mà muốn khóc lên được. Bài thơ Đặng
Nguyệt Anh làm 5/1974 nghĩa là tôi cũng có mặt nơi chị sinh con được 5 tháng,
có thể rất gần nữa vì tôi ở Ban Quân huấn, thuộc Quân khu bộ, Quân khu Miền Đông.
Bài thơ thực tế chỉ như những trang nhật ký riêng tư nhưng nó lại mang tính
biểu tượng nhân văn lớn lao. Thì ra chúng ta đã kiên trì chiến đấu không chỉ
bằng gian khổ mà bằng cả tình yêu, trong ác liệt không chỉ có chết chóc mà sự
sống vẫn sinh sôi.
Nữ thi sĩ Võ Thị Kim Liên có bài thơ “Trái tim người mẹ” có
kết cấu và tình tiết như một truyện ngắn. Bài thơ kể về câu chuyện có một người
mẹ có con trai là liệt sĩ:
Ngày anh đi
tuổi vừa tròn mười tám
Mũ
tai bèo vời vợi vành trăng
Bảy
mươi tuổi mắt mờ chân chậm
Khóc
chồng con tận đáy đắng cay
Giờ
đây mẹ rất mừng khi nhận lại hài cốt của đứa con tưởng đã thất lạc nhưng:
Chợt
mẹ thốt lên run rẩy:
-Sao
lại mười ngón tay?
Bởi:
Thằng
Út chặt dừa mất ngón cái
Bây giờ
mẹ vẫn còn đau!
Nghĩa là người mẹ nhận được bộ hài cốt không phải của con
mình.
Tưởng được gặp lại con hóa ra
lại không phải, giống như mẹ lại mất con một lần nữa, nỗi đau lại nhân đôi.
Nhưng rồi lòng vị tha, lòng nhân từ, tình người đã hóa giải tất cả:
Nắng sông
Tiền buổi ấy xiêu xiêu
Phù
sa đỏ đôi bờ mịn mát
Nén
hương thơm và hoa trái ngọt
Cho
đứa con không tên thành Út quê nhà!
Và
rồi nữ thi sĩ đã nhận ra tấm lòng bao la của một người mẹ, một người mẹ cụ thể nhưng
cũng mang dáng vóc của một người mẹ Việt Nam, những Bà mẹ Việt Nam anh hùng:
Tôi sững
lặng trước trái tim người mẹ
-Thằng
Út nào cũng máu thịt sinh ra!
Có một bài thơ tên là “Nhẫn
cỏ”:
Ngón gầy nhẫn cỏ tôi mang
Ấm như có ngón tay chàng chạm tay
Trong muôn vàn sắc thái của tình cảm, có loại tình cảm chỉ
biết cho đi mà không cần phải nhận về, lấy hạnh phúc của người mình yêu làm
hạnh phúc của mình:
Đã từng yêu rất thiết tha
Vẫn chưa ai khiến lệ sa nghẹn ngào
Dẫu chàng biệt tích nơi nao
Dẫu chàng êm ấm ngọt ngào vợ con…
Đây
là tình cảm vị tha chứ không phải vị ngã, ngược với tình yêu ích kỷ. Đây cũng
chính là phẩm chất của con người mà Đạo Phật răn dậy người ta tu sửa, cần phải bỏ
đi cái chấp ngã mà hướng đến. Nếu đạt được cái tâm thế ấy, người ta sẽ trở
thành giầu có nhất trên đời bởi họ coi sự giầu có của thiên hạ là của mình; họ
sẽ hạnh phúc nhất vì họ coi hạnh phúc của thiên hạ là của mình. Khi ấy, chiếc
nhẫn cỏ cũng hóa thành nhẫn kim cương. Nhưng ai mà lại làm được bài thơ “đẳng
cấp” như vậy? Tôi tra tên thì hóa ra của nữ thi sĩ lừng danh Phan Thị Thanh
Nhàn. Tôi hơi bị dị ứng với những người quá nổi tiếng vì người ta được nói đến
quá nhiều, nên họ không còn gì để mà khám phá nữa. Nhưng với Phan Thị Thanh
Nhàn tôi đã lầm. Hai câu thơ như nỗi khao khát của một nửa nhân loại đối với lũ
đàn ông hư đốn, một điều không hay ho gì nhưng tiếc là lại là sự thật:
Ước gì yêu được một người
Để đêm không vỡ để ngày chẳng nghiêng
…
Ước gì cười nói vô tư
Đếm niềm vui của từng giờ bay ngang
(Bài Ước gì)
Là người ai cũng có mẹ, ai cũng lo sợ cái cảnh
“Mẹ già như chuối chín cây”, tôi cũng
đã phải đau khổ trải qua cái ngày mất mẹ, tôi đã viết lại toàn bộ những gì diễn
ra trong đám tang mẹ tôi thành một truyện ngắn, đăng lên đã lấy được không ít
nước mắt của bạn đọc, nhất là những người phụ nữ. Con trai mất mẹ đã thế, con
gái hiểu mẹ hơn, đồng cảm với mẹ hơn vì cùng có sự trải nghiệm làm mẹ, chắc
chắn sự đau khổ của con gái mất mẹ sẽ sâu sắc và thấm thía hơn nhiều. Nữ thi sĩ
Phạm Dạ Thủy trong bài Mẹ ơi viết về
nỗi đau mất mẹ:
Cho con một cuộc đời hoa
Mẹ giành phận lá úa già tháng năm
Mẹ đau bao nỗi đau thầm
Mẹ vui theo mỗi bước chân con về
Bây giờ mẹ bỏ lại quê
Mảnh vườn đầy gió bộn bề nhớ thương
Bây giờ chiều với mình con
Đơn côi với khúc sông buồn mồ côi
Mẹ về với đất với trời
Buồn vui gởi lại cho đời, mẹ ơi!
Đoàn
tụ là một điều thuộc về hạnh phúc của con người nhưng con người trong cuộc sống
lại luôn phải chia ly. Chế Lan Viên đã viết hai câu thơ bất tử: “Khi ta ở chỉ là nơi đất ở/ Khi ta đi đất đã
hóa tâm hồn”. Nữ thi sĩ Tôn Nữ Thu Thủy cũng có bài thơ viết về sự chia ly,
chia ly với cha mẹ, với gia đình, với cố đô, thành phố quê hương. Vì tâm trạng
chia ly mà chị thấy mưa đã làm “nhòa mắt”
cả biển, đến núi non cũng đứng lại “ôm
ghì lòng đau”:
Mưa gần ướt đẫm bàn tay
Mưa xa nhòa mắt biển ngày ra đi
Dốc đèo cao mãi chia ly
Núi non đứng lại ôm ghì lòng đau
Hạt nào rơi xuống vườn sau
Rung trong sân trước một mầu xanh xanh
Mái nhà cha mẹ thôi đành
Xa xăm ở giữa nội thành xa xăm
(Bài Mưa qua Hải Vân)
Khi có thiên hướng viết lý luận phê bình, tôi không chỉ đọc
những tác phẩm của các nhà lý luận phê bình mà còn, như đã viết ở trên, tôi đọc
những trang phê bình của Chế Lan Viên. Các nhà lý luận phê bình có thể rất bài
bản nhưng đọc các nhà sáng tác viết phê bình, nhất là cỡ Chế Lan Viên, ta sẽ
biết được cái “bí kíp” làm nghề của họ. Chế Lan Viên cho những câu thơ chân
thực, tự nhiên cũng có thể hay, nhưng chúng phải là những viên ngọc kết tinh từ
môi trường thấm đẫm sự sống; ngược lại có những câu thơ hay do sự sáng tạo độc
đáo từ thiên tư, từ năng khiếu của nhà thơ. Những câu thơ này thường giàu hình
ảnh từ trí tưởng tượng của nhà thơ. Vi Thùy Linh là nữ nhà thơ trẻ có nhiều cố
gắng bứt phá ra khỏi khuôn khổ cũ. Câu thơ “Cài
then tiếng khóc em bằng đôi môi anh” là một ví dụ. Có điều tôi bất ngờ
trong tập thơ nữ này là không phải cứ trẻ thì mới “quậy” mà nữ thi sĩ Phi Tuyết
Ba, người có thể làm mẹ Vi Thùy Linh được, cũng có bài thơ “Người đàn bà ngồi vá bóng đêm” với ngôn
ngữ rất độc đáo, sáng tạo, giàu hình ảnh, thể hiện sâu sắc nhất thân phận của
người phụ nữ:
Người đàn bà
ngồi vá bóng đêm
…
Chiếc kim
trên tay
Chị vá lại
đời mình
Vá lại bóng
đêm đã hai mươi năm
Rách từng
mảnh trống
…
Những mũi kim
cứ vụng về vá víu
Sợi chỉ trên
tay rối bời
Đêm chẳng
lành hơn
Chỉ có miếng
vá nỗi đau này
Chồng lên
miếng vá nỗi đau kia
Ngày một dày
thêm
Hai mươi năm
chị khâu nhẫn nại.
Bộ
ngực là bảo vật mà Tạo hóa tạo cho người phụ nữ để nuôi con, đồng thời bộ ngực
trinh nữ cũng là biểu tượng của sắc đẹp. Từ bao đời, các nghệ sĩ thuộc các lĩnh
vực nghệ thuật văn chương, hội họa, điêu khắc cả Đông Tây, kim cổ trên thế giới
đã say mê diễn tả nó mà dường như còn chưa thỏa và có lẽ mãi mãi còn như thế.
Chính tôi đây cũng từng viết:
Nhớ buổi
chiều năm nao em làm ta lấm áo
Em đã đền nụ
cười sáng cả chiều quê
Bộ ngực trinh
nguyên đã rung lên dưới lớp áo mờ
Còn
nữ thi sĩ Ánh Tuyết đã viết:
Gió bỡn cợt
hất tung vạt áo
Em gái má ửng
hồng, làm cỏ lúa
Ngực căng
tròn, môi mọng như hoa
Riêng
mình, nữ thi sĩ cũng rất mạnh bạo, hiện đại thể hiện bản năng dục tính một cách
đầy tinh tế, ý nhị:
Lẽ nào chưa hết đàn bà
Bồi hồi ngực áo… làn da phập phồng
…
Ngại ngùng…e ấp… điệu đàng
Hình như… ta vẫn còn đang đàn bà
Bài
viết có lẽ đã quá dài đối với một cuộc hội thảo, còn bao hạt ngọc thi nữ nữa mà
tôi không thể nói ra, đành đổ lỗi cho thời gian vậy. Xin chúc các chị, các em
trẻ mãi không già, đẹp mãi theo thời gian, làm mãi những vần thơ hay. Xin cảm
ơn sự lắng nghe của mọi người!
19-6-2015
ĐÔNG LA