Khi Nguyễn
Quang A tham dự Hội thảo Hè diễn ra tại Đại Học Humboldt ở
Về những bài học quốc tế, Nguyễn
Quang A trích dẫn: “Quá trình này, theo
D. A. Rustow (1970) có thể chia làm ba pha: pha chuẩn bị, pha chuyển đổi (ông
gọi là pha quyết định), và pha củng cố (ông gọi là pha tập làm quen)”,
theo đó ông ta cho rằng nước ta đang ở “pha
chuẩn bị”
Trong mục: Vài cách tiếp cận đấu tranh cho dân chủ ở Việt
Cả bài tham luận Nguyễn Quang A dùng thủ đoạn “mượn gió bẻ măng”, mượn lời người khác nói thay ý mình, như chuẩn bị đối phó trước với an ninh tư tưởng: "Người ta nói thế chứ có phải tôi đâu?". Có điều pháp luật đã ghi rõ tuyên truyền những chuyện sai trái cũng là phạm pháp.
Theo Kerkvliet có bốn cách tiếp
cận đến dân chủ hóa ở Việt
Đất nước chúng ta, từ khi mất
nước đến được như ngày nay, nhiều phen phải đứng trước tình trạng “ngàn cân treo sợi tóc”, chúng ta nhận
được nhiều sự giúp đỡ nhưng mọi đường lối, chủ trương, hành động vượt qua mọi
hiểm nguy để dẫn đến thắng lợi đều do trí tuệ, tinh thần của người Việt, đâu có
cần đến các ông nào loại như Rustow,
Kerkvliet mà hôm nay Nguyễn Quang A đang đội trên
đầu. Theo Kerkvliet, Trần Độ, một công thần, có trong đội ngũ lãnh đạo, là hình
mẫu có thể lật đổ được chế độ toàn trị. Vậy hôm nay, tôi xin đăng lại bài về
Trần Độ, xem một người như ông có thể đưa được đất nước chúng ta đến cảnh sung sướng hơn
những ngày hôm nay được không?
15-9-2015
ĐÔNG LA
|
TRẦN ĐỘ - MỘT CON NGƯỜI HAI CUỘC ĐỜI
Tướng
Trần Độ có 2 cuốn hồi ký (Xin xem Hồi
ký Trần Độ trên http://vnthuquan.net/). Cuốn
đầu có thể nói như trang sử vàng chói lọi của cuộc đời ông; và cuốn sau: “nhật
ký rồng rắn”, tiếc thay, ông lại nói ngược với cuốn trước.
Trong
cuốn đầu, "Đổi mới, niềm vui chưa trọn", ông đã tổng kết cuộc đời
mình như sau:
“Ngẫm lại cuộc đời hoạt động cách mạng gần 60 năm của mình
tôi có khá nhiều niềm vui lớn. Đầu tiên là niềm vui chiến thắng được những đòn
tra tấn dã man của kẻ thù ở nhà lao Thái Bình lúc tôi vừa tròn 18 tuổi. Năm
1943, trong đoàn tù từ Sơn La về Hà Nội để lên tàu ra Côn Đảo, đến Hòa Bình tôi
đã vượt ngục thành công và một hạnh phúc lớn bất ngờ đến với tôi, được Đảng
phân công làm người giúp việc cho đồng chí Tổng bí thư Trường Chinh … Ngày 7
tháng 5 năm 1954, trong chiến hào Điện Biên phủ, tôi và anh Lê Trọng Tấn đã ôm
chặt nhau, sung sướng nghẹn ngào khi được tin chính các chiến sĩ Đại đoàn 312
của mình đã bắt sống tướng Đờ Cát ngay trong hầm chỉ huy của nó.
Hơn
mười năm sau, với cương vị Phó chính ủy Quân giải phóng miền Nam, tôi lại được
hưởng niềm vui lớn khác của chiến thắng, lần trước là thắng Pháp, bây giờ là
thắng Mỹ”.
Còn
gì hạnh phúc, đáng tự hào hơn thế? Sau những vị ở hàng lãnh tụ, có lẽ công lao
của tướng Trần Độ đúng là thuộc hàng đầu trong công cuộc giành độc lập của nước
ta. Vậy mà chua chát thay, trong đám tang ông lại có chuyện người con trai cả
thay mặt gia đình “xin phép không tiếp nhận lời điếu” của vị đại diện Văn phòng
Quốc hội bởi có đoạn “rất tiếc là ông Trần Độ cuối đời đã mắc những lỗi lầm
nghiêm trọng”!
***
Năm
1991, Trung tướng Trần Độ, Trưởng Ban Ban Văn hóa Văn nghệ Trung ương đã bị
cách chức và bị kỷ luật. Một chuyện thật đáng tiếc. Vụ việc xảy ra đã hơn 20
năm nhưng với danh tiếng của ông, những người chống chế độ luôn lợi dụng, coi
ông như lãnh tụ tinh thần, và coi việc ông “phản tỉnh” như một chỗ dựa về tính
chính nghĩa cho con đường chống đối của họ. Đến Dương Thu Hương, người đàn bà
nanh nọc, coi trời bằng vung, cũng rất kính trọng tướng Trần Độ: “Tôi đã
có nhiều dịp tiếp xúc với anh Trần Độ. Anh Trần Độ đã đứng hẳn về phe chúng
tôi, tôi biết chắc rằng cuối đời sự chuyển hướng của anh là mạnh mẽ và dứt
khoát”; “chế độ Hà Nội căm ghét ông, đương nhiên, cũng là lý do để chúng tôi
cảm phục ông”.
Có lẽ do danh tiếng của Trần
Độ quá lớn nên tôi thấy đa số người ta cho ông bị thất sủng là do các nhà lãnh
đạo hồi ấy bảo thủ, không theo kịp tư duy đổi mới của ông. Tiếc là sự thật
không phải như vậy.
***
Bây
giờ chúng ta hãy xem qua những nét chính của đời Trần Độ qua cuốn hồi ký của
ông.
Trong
cuộc kháng chiến chống Pháp, ông đã tham gia ngay từ những ngày đầu, từng được
gặp cả Bác Hồ; ông đã ghi lại cảm xúc của mình trong lần đầu được gặp Bác:
“Rõ ràng ông cụ rất nghiêm, không bỏ qua bất
cứ thiếu sót nào, đồng thời rất mực thân ái, rất tình cảm. Do vậy cái nghiêm
khắc cùng lòng nhân ái làm ta nhớ khắc sâu trong lòng thành những kỷ niệm khó
quên. Nó làm ta gần Bác thêm, yêu Bác hơn. Sức cảm hóa của Bác thật kỳ diệu…
tôi cũng có dịp tiếp xúc, được làm việc với nhiều đồng chí lãnh đạo cấp trên.
Nhưng không một ai gieo cho tôi thứ tình cảm lạ lùng này: nó nâng tôi lên, làm
tôi tự tin hơn, hưng phấn lao tới những gì tốt đẹp hơn, nhân văn hơn”.
Trong
ngày 7 - 5 - 1954, ngày chiến thắng ĐBP, ông đã kể lại một chi tiết thú vị
trong chuyện bắt sống tướng Đờ Cát:
“- Tôi xin hỏi các ông một câu hơi tò mò nhưng
mong các ông đừng chấp, là lính các ông trước khi ra trận uống rượu phải không?
Các ông cho họ uống rượu ư?
Tôi liền hỏi lại:
- Căn cứ vào đâu mà ông hỏi như vậy ?
Nó nói:
- Tôi hỏi như vậy là vì khi lính các ông xông vào chỗ
tôi mặt mũi người nào cũng đỏ bừng trông ghê lắm! Tôi nghĩ là họ uống rượu nên
mới hăng như thế ... Có phải thế không?
Tôi đáp:
- Thế thì ông nhầm! Ông không hiểu chúng tôi rồi.
Chiến sĩ chúng tôi đi chiến đấu không bao giờ phải dùng rượu để nâng lòng dũng
cảm cả. Mỗi người chúng tôi đều mang lòng yêu nước cao độ ... Chúng tôi căm thù
quân xâm lược các ông. Chính vì lòng căm thù đó mà chúng tôi chiến đấu dũng
cảm. Điều mà ông nhận xét chính là sự biểu lộ của lòng căm thù và tinh thần
chiến đấu của họ ...”.
Đặc
biệt, ông cho biết Đờ Cát, một vị tướng tài danh của một nước từng là "mẫu
quốc" lại thú nhận rằng: "Tôi
cũng thấy làm vinh dự được làm tù binh của một quân đội như quân đội Việt Nam",
một đất nước mà họ từng coi như mảnh đất hoang của một thứ dân man di mọi rợ mà
họ đã đến để khai phá, chiếm giữ.
Đến
cuộc kháng chiến chống Mỹ, ông kể lại việc vào chiến trường, nơi đầu rơi máu
chảy: “hết sức tự nhiên không có gì
để phải suy tính”; “lệnh anh Thanh
đưa ra: Chuẩn bị đi B... tôi đã trả lời Vâng và chuẩn bị sẵn sàng”. Trong
lần đầu ra mắt lãnh đạo “Trung ương Cục”,
gặp ông Nguyễn Văn Linh, ông kể:
“Anh Thanh trịnh trọng giới thiệu chúng tôi
với các ông ở Trung ương Cục. Anh nói:
- Tôi chọn cán bộ chi viện miền Nam và chọn mấy tay này. Đều là
những tay sừng sỏ của miền Bắc cả. Lê Trọng Tấn là tay sư đoàn trưởng đã chỉ
huy nhiều chiến dịch, Trần Độ là tay có nhiều kinh nghiệm về công tác chính
trị, số một số hai đấy…”.
Như
vậy, trong hai cuộc kháng chiến, ở những công việc quan trọng nhất, thời điểm
quan trọng nhất, Trần Độ đều có mặt. Ông xứng đáng được ghi tên trên bảng vàng
danh dự trong lịch sử giành Độc lập của dân tộc.
***
Nhưng
thật tiếc, sau hòa bình, vị tướng bách chiến bách thắng trên mặt trận quân sự
lại thất bại hoàn toàn trên mặt trận văn hóa tư tưởng. Trong chiến trường, dưới
“mưa bom bão đạn”, ông vẫn bình yên thì trên mặt trận mới không tiếng súng, ông
lại bị “bắn hạ”, dù ông đã biết trước kẻ địch của mình là như thế nào:
“Với chính sách mở cửa, kéo theo sự du nhập ồ
ạt các nền văn hóa ngoại lai, đặc biệt là văn hóa phương Tây nếu không giữ gìn
và phát triển nền văn hóa dân tộc thì không tránh khỏi nguy cơ xuống cấp đạo
đức về nhiều mặt”.
“Trong cuộc đấu tranh trên mặt trận này, kẻ
địch xảo quyệt và có nhiều kinh nghiệm, biết rõ được tâm lý của trí thức, biết
được chỗ yếu của trí thức là dễ giao động và mơ hồ. Chúng thường khoét sâu vào
những lý tưởng nhân đạo chung chung, vào tự do dân chủ chung chung, tự do sáng
tạo, vào vấn đề nhân tài và tài năng. Chúng thường xoáy vào chỗ cộng sản là khô
khan, là kỷ luật sắt, bóp nghẹt mọi sáng tạo của trí thức làm tổn thương đến
tinh thần tự do sáng tạo vào nhân cách của trí thức”.
Với
sự chuẩn bị về tinh thần như vậy, ông đã lao vào cái mặt trận mới bằng tất cả
nhiệt huyết:
“Là người đã tham gia các chiến dịch lớn
trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, … tôi bỗng có sự liên tưởng
đến không khí của đời sống văn hóa văn nghệ của đất nước trong những ngày này,
thực chẳng khác gì không khí chuẩn bị bước vào một chiến dịch lớn”.
Rồi
“Giữa tháng 9 năm 1987”, sau khi "chưng cất" những ý kiến các văn
nghệ sĩ, ông “làm việc với anh Nguyễn Văn Linh” và thấy TBT “tỏ ra rất
vui” và ông bị bất ngờ bởi vị TBT còn muốn có một cuộc gặp trực tiếp với
văn nghệ sĩ để rồi sau đó ông cho là: “Có thể nói, đây là một cuộc gặp có
tính chất lịch sử”.
Trong
đó, Nguyên Ngọc nói: "Do điều kiện chiến tranh, trong văn học nghệ thuật
ta đã thường quen chỉ nói một chiều. Chỉ nói thắng lợi, không nói thất
bại;... Ở ta cho đến nay vẫn thống trị hai quan niệm phổ biến về chức năng
xã hội của văn nghệ. Một là văn nghệ minh họa… Đại thể là: Đảng và nhân dân sẽ
làm nên sự nghiệp anh hùng, văn nghệ hãy ghi chép lại đi, để ca ngợi”. Theo
Nguyên Ngọc: “nghệ thuật… giữ cho con người… không sa xuống thành con vật
mà cũng không thành những ông thánh vô bổ và vô duyên… Cái cốt lõi của văn nghệ
là tính nhân đạo". Sau cùng: “đồng chí Tổng bí thư phát biểu kết thúc cuộc
gặp:
“…Các đồng chí có nói nhiều đến sự "cởi
trói". … "Cởi trói" nói ở đây trước hết tôi nghĩ rằng Đảng phải
cởi trói ... Và, cái các đồng chí sợ nhất là cái thường lơ lửng đâu đó trong
không trung… kết tội các đồng chí viết không đúng lập trường… Sáng tác tác phẩm
đụng chạm đến "nhà" quan liêu mệnh lệnh nào đó đương chức, đương
quyền là điều khó nhưng phải dũng cảm… Trước đây có những tác phẩm vì thế mà bị
sổ toẹt. Tác giả phải hứng chịu nhiều sự phiền toái, thậm chí lao đao. Nhưng có
phải vì thế mà ta phải uốn cong ngòi bút cho "hợp khẩu
vị" những con người xấu ấy không? Tôi cho rằng nếu phải làm như vậy thì
người nghệ sĩ bị mất hết chất cách mạng rồi!…Phải đứng vững trong trường phái
tả chân xã hội chủ nghĩa”.
Trần
Độ cho rằng cuộc gặp trên là “đỉnh
cao của một phong trào sôi nổi của giới văn hóa nghệ thuật”. Sau đó Bộ
chính trị đã “thông qua dự thảo Nghị
quyết về Văn hóa Văn nghệ”. Với ông Lê Đức Thọ, Trần Độ cho biết: “Khi
tan họp bước ra sân, anh Thọ còn ôm lấy cổ tôi và nói:
- Nghị quyết hay lắm. Mày làm tốt lắm!”
Và ông nhận
thấy: “Có lẽ đây là một trong những hạnh
phúc lớn nhất của đời tôi”. Cái hạnh phúc đó chính là “Nghị quyết 05”, do ông soạn, đã được chính “Tổng bí thư ký ngày 28/11/1987”, với những ý chính như sau:
“… Nền văn hóa mới Việt Nam xây dựng trên cơ sở những
nguyên tắc của chủ nghĩa Mác-Lênin là một nền văn hóa xã hội chủ nghĩa đậm đà
bản sắc dân tộc. …
Để văn hóa, văn nghệ có thể làm tròn được chức năng
cao cả của mình, các nhà hoạt động văn học và nghệ thuật phải là những chiến sĩ
của Đảng trên mặt trận văn hóa, văn nghệ, chăm lo bồi dưỡng thế giới quan Mác-
Lênin và nhân sinh quan cách mạng, đề cao tinh thần trách nhiệm đối với đất
nước, với nhân dân, …
Tự do sáng tác là điều kiện sống còn để tạo nên giá
trị đích thực trong văn hóa, văn nghệ, để phát triển tài năng. … Bản chất quyền
tự do sáng tác của văn nghệ sĩ nằm trong sự nghiệp cách mạng do Đảng lãnh đạo
và được quy định bởi trách nhiệm và nghĩa vụ của mỗi người đối với tổ quốc và
chủ nghĩa xã hội.
… Làm thất bại âm mưu và hoạt động của các thế lực thù
địch và phản động hòng biến văn hóa, văn nghệ thành phương tiện gieo rắc tâm lý
bi quan và lối sống sa đọa …”
Như
vậy, dường như tất cả mọi chuyện đều hoàn hảo, nhưng tại sao ngay sau đó Trần
Độ lại viết:
“Hài hước ở chỗ người ta vừa thông qua xong
Nghị quyết… thì đã có những ý kiến muốn phủ nhận những quan điểm cơ bản của
Nghị quyết. Thậm chí có người còn dám đổ thừa: Sau Nghị quyết 05 văn nghệ có
những biểu hiện lệch lạc”.
Rồi sau đó ông cho biết mình đã bị “Trung ương”: “kỷ luật cảnh
cáo”!
***
Bây
giờ khách quan xem xét lại vụ việc thì thấy, về lý thuyết, rõ ràng Trưởng Ban
Văn hóa Văn nghệ Trần Độ đã làm quá tốt; quân, tướng của ông “nói” cũng rất
hay, chính vì thế TBT Nguyễn Văn Linh mới ủng hộ ông hết mình. Tiếc là khi
triển khai vào thực tế thì giữa “lời nói” và “việc làm” của các vị lại ngược
nhau. Mà hai người “có công” đầu làm Trần Độ thất sủng chính là Nguyên Ngọc và
Nguyễn Huy Thiệp. Nguyên Ngọc, một người được Trần Độ đánh giá: “trọn vẹn cả đức cả tài như anh không nhiều.
Bởi vậy khi anh chính thức được bổ nhiệm cương vị Bí thư Đảng Đoàn Hội nhà văn
tôi rất mừng - Đây là một trong những trường hợp "đặt người đúng chỗ"
hiếm hoi trong cơ chế của chúng ta”. Nếu nói Trần Độ là lãnh đạo Văn hóa
Văn nghệ thì Nguyên Ngọc là vị tướng xuất quân, phất cờ "đổi mới".
Vậy dưới ngọn cờ “đổi mới” ấy, nền văn chương nước ta đã gặt hái được gì?
Có
đúng như “Nghị quyết 05” viết: “Để văn hóa, văn nghệ có thể làm tròn được
chức năng cao cả của mình, các nhà hoạt động văn học và nghệ thuật phải là
những chiến sĩ của Đảng trên mặt trận văn hóa, văn nghệ”? Có đúng như lời
Nguyên Ngọc nói trong cuộc gặp với TBT Nguyễn Văn Linh: “Nghệ thuật giữ cho con người không sa xuống thành con vật” và “Cái cốt lõi của văn nghệ là tính nhân đạo” không?
Với
mặt trận là tờ Văn nghệ, diễn đàn trung tâm của Văn chương VN, Nguyên Ngọc đã
khai sinh ra một “chiến sĩ” văn nghệ ưu tú nhất theo tinh thần của ông, đó
chính là Nguyễn Huy Thiệp, với một loạt truyện ngắn mà truyện "Phẩm tiết" chính là một trong những
yếu tố khiến Trần Độ bị kỷ luật! Trong truyện này (bản gốc) Nguyễn Huy Thiệp đã
dựng lên hình ảnh Vua Quang Trung tầm thường, “ăn hối lộ”, thù vặt và sử dụng tài văn của mình dùng nhân vật trong
truyện chửi những nhân vật ngoài đời: “nhét
c. vào mồm thằng Khải tài như cái đấu” mà dám chê tiệc của vua nhạt và
“xẻo d. thằng Thi” xem có còn dê được
không? Chính Trần Độ dù có chống chế nhưng cũng phải thừa nhận Nguyễn Huy Thiệp
“có thể chưa hay, chưa giỏi trong việc
xây dựng nhân vật văn học lấy nguyên mẫu từ một anh hùng dân tộc, vua Quang
Trung” và “có sự bất bình của một số
người đọc đối với truyện ngắn Phẩm Tiết, nhà văn cần rút kinh nghiệm về trường
hợp này… anh Thiệp thực có ý định nêu tên để chửi rủa vài người nào đó, thì đó
là ý định xấu, có hại”.
Nhưng
Nguyễn Huy Thiệp không chỉ có thế, qua các “hình tượng” văn chương khác, ông
nhà văn này còn cho Vua Quang Trung “chỉ
như trọc phú nhà giàu” và Nguyễn Ánh mới là “nòi vương giả”. Mà theo tôi, đánh giá cao Nguyễn Ánh đồng
nghĩa với sự biện hộ cho hành động Pháp xâm lược Việt Nam . Điều này giải thích tại sao
Pháp in cho Nguyễn Huy Thiệp tới 14 đầu sách và với số tiền nhuận bút chính ông
Thiệp khoe là cả 70.000 - 80.000 đô. Nhà văn Mai Ngữ cho Nguyễn Huy Thiệp: “đã lăng nhục cha ông, tổ tiên mình”( Đi
tìm Nguyễn Huy Thiệp, tr.452). Đặc biệt, cũng liên quan đến lịch sử, trong một
lần sang Thụy Điển, Nguyễn Huy Thiệp tuyên bố: “Thế hệ tôi nôn mửa vào cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc” (Theo Trần
Đăng Khoa, Văn nghệ quân đội số 596 tháng 4/2004) đã làm nhiều người,
trong đó có tôi, người từng rất quý sự độc đáo của văn Nguyễn Huy Thiệp, đã rất
coi thường ông này. Xem chừng ông Đỗ Văn Khang đã nói đúng về Nguyễn Huy Thiệp:
“Đặc biệt cái tâm mà không sáng thì không
thể làm văn được”. v.v…
Như
vậy, khi ca ngợi Nguyễn Huy Thiệp hết lời, và đến nay vẫn luôn cho văn Nguyễn
Huy Thiệp là “thành tựu” nổi bật nhất của "đổi mới", Nguyên Ngọc đã
quên béng mất cái tuyên ngôn của mình trong cuộc gặp với TBT Nguyễn Văn Linh: “nghệ thuật giữ cho con người không sa xuống
thành con vật” và không biết ông ta có thấy là đã đi ngược với sự “chỉ lối đưa đường” của “Nghị
quyết 05” mà Trần Độ đã viết ra không: “Nền
văn hóa mới Việt Nam xây dựng trên cơ sở những nguyên tắc của chủ nghĩa
Mác-Lênin”; “Tiếng nói của văn nghệ hiện thực xã hội chủ nghĩa Việt Nam phải là
tiếng nói của tinh thần nhân đạo cộng sản chủ nghĩa”? Và xem chừng
Trần Độ bị kỷ luật bởi vì ông đúng như lời Tướng Nguyễn Sơn từng nói về ông mà
chính ông đã kể lại trong Hồi ký: “Mày thì biết chó gì văn nghệ”
Như
vậy, Trần Độ, theo phân tích ở trên, rõ ràng là có chuyện “nói một đằng làm một nẻo”. Chính ông cũng phải thừa nhận: “Tôi tự thấy tôi là người không thiếu bản
lĩnh, nhưng do tính phức tạp của môi trường mới mà chất lính trong tôi chưa hòa
nhập được, nên tôi bị vấp ngã giữa đường. Chính vì vậy, mà tập hồi ký này có
tên: "Đổi mới, niềm vui chưa trọn".
***
Tôi thấy trong đời một con người có điều
quan trọng là, ngoài việc phấn đấu để thành công, người ta còn phải biết chấp
nhận thua thiệt, biết chấp nhận thất bại. Biết chấp nhận thất bại là điều khó,
cần phải có bản lĩnh, có trình độ và cái tâm phá chấp. Chính Đức Phật đã dạy
người con tập thiền là: hãy coi mình như mặt đất, bởi mặt đất là nơi người ta
dẫm đạp lên, chất chứa rác rưởi, thậm chí phóng uế lên đó mà vẫn “không sao
cả”, được như thế thì không còn gì có thể làm ta đau khổ được nữa. Nhạc sĩ Phạm
Tuyên, người có cha bị cách mạng giết, ngoài việc ông “hiểu được lời khuyên của
Bác Hồ”, tâm ông phải có nhiều Phật tính mới có thể hóa giải được nỗi đau để
trở thành một nhạc sĩ hàng đầu của cách mạng như thế. Tiếc là Trần Độ, người
vốn là một công thần của chế độ, khi gặp chuyện, ông đã không vượt qua được cái
tôi của mình.
Giai
đoạn cuối đời, ông có viết một bài làm tôi chú ý là "MẶT THẬT VÀ MẶT
THẬT..." để bảo vệ ông Hà Sĩ Phu: “Té
ra là "Mặt thật phản bội..." của Hà Sĩ Phu là đã quá thông minh”!
Nhưng chỉ xin lấy một ví dụ. Trong bài Triết học Mác - Lê: Khủng hoảng
phương pháp luận, Hà Sĩ Phu viết: “Ý thức tinh thần chính là thuộc tính chung của thế giới vật chất. Không
thể có cái thứ vật chất không có tinh thần, cũng không có cái thứ tinh thần
ngoài vật chất: Tách thành vật chất và tinh thần để rồi cho rằng cái này có
trước, cái kia có sau tức là tách "vật chất" ra khỏi chính thuộc tính
của nó thì vô nghĩa biết chừng nào! Thử hỏi thanh nam châm và cái thuộc tính
hút sắt của nó thì cái nào có trước?”. Viết như vậy, ai biết một tí về
triết cũng thấy thật ngô nghê và buồn cười, bởi như thế thì có khác
gì ông Hà Sĩ Phu đã tự coi ý thức của mình ngang với “ý thức” của sâu bọ, rắn
rết và rác rưởi. Với Triết học Mác, khái niệm “Vật chất” là “thực tại
khách quan”; còn “Ý thức” là “hình thức phản ánh cao cấp, riêng có ở con người,
đối với thực tại khách quan”; “vật chất có trước và sinh ra ý thức”. “Vật
chất” ở đây chính là bộ não người. Ngày nay khi người ta có thể làm
ra được các loại máy móc điều khiển được bằng ý nghĩ, chứng tỏ ý
thức đã tách rời được khỏi bộ não, tác động vào tế bào quang điện của máy, làm
máy hoạt động. Như vậy, viết như trên, Hà Sĩ Phu là mù tịt chứ không
phải “quá thông minh” như ý Trần Độ. Cũng cần phải biết phân biệt “ý thức sinh học” trên
với “thần thức” của Phật giáo. Có gì giống có gì khác? Có gì chung có gì riêng? Ý thức sinh học biểu lộ nhận thức và cảm xúc do não bộ sinh ra trong sinh hoạt của con người. Khi dùng thuốc gây mê, hoặc ngủ say không mơ, não bộ ngưng "tiết ra" ý thức sinh học. Vậy nó liên quan thế nào với thần thức, cái làm nên một cái "tôi", dù là giả tạm, nhưng là cái tôi của một kiếp người, làm nên sự khác nhau giữa mỗi người. Thần thức lại có khả năng tái sinh, luân hồi theo nghiệp, khoa học chưa kiểm chứng được, nhưng
trong thực tế đã có vô vàn hiện tượng tâm linh là những chứng cớ mà nhận thức
khách quan không thể bác bỏ được.
Ngoài
bài trên, Trần Độ còn viết một số thư ngỏ, bài viết, đặc biệt là tập “Nhật ký Rồng Rắn”. Tất cả, gần như ông
đã viết ngược lại cuốn trước.
Nếu
cuốn trước ông viết:
“Phải trên một chân lý hiển nhiên là có Đảng
lãnh đạo mới có nền kinh tế và văn hóa như ngày nay… Và trên cơ sở chân lý đó,
có những yêu cầu nâng cao sức lãnh đạo của Đảng… thì tạm coi là một ý
kiến tích cực. Nhưng, từ những ý kiến đó mà đi tới một sự chê bai, châm chọc,
thậm chí phủ nhận sự lãnh đạo của Đảng thì là những ý kiến phản
động mà kẻ thù của ta mong muốn gợi lên”; “Những yếu tố tiêu cực như nấm độc cứ len lỏi khắp nơi. Chỉ những chỗ
nào, lúc nào ánh sáng của lý tưởng, của sự nghiệp chân chính chiếu rọi vào thì
mới hạn chế được những nấm độc chủ nghĩa cá nhân ích kỷ, của những thói tự cao
tự đại và bảo thủ lạc hậu - ánh sáng đó là mặt trời, mặt trời chân lý, mặt trời
của lý tưởng, của sự nghiệp. Dù sao nó cũng cứ vằng vặc sáng soi khắp chỗ… và
mặt trời vẫn cứ là mặt trời"; “Xã
hội chủ nghĩa trở thành một xu thế của lịch sử, đồng thời là ước mơ, khát vọng
của loài người. Nhưng con đường đi lên xã hội chủ nghĩa lại không thể không
trải qua những bước đi khác nhau: nhanh hay chậm, thành công hay thất bại, thậm
chí cả việc vừa xã hội chủ nghĩa vừa lại là không phải xã hội chủ nghĩa, hoặc
xã hội chủ nghĩa thật, cũng có xã hội chủ nghĩa giả. Kẻ thù của xã hội chủ
nghĩa ra sức xuyên tạc, bịa đặt, vu khống, chê bai, khoét sâu khuyết, nhược
điểm, lợi dụng mâu thuẫn "Đâm bị thóc, chọc bị gạo" luôn tìm sơ hở để
phản kích ác liệt”.
Trong
“Nhật ký Rồng Rắn”, ông đã viết ngược lại:
“17.11.2000
Có nhất thiết chỉ có chủ nghĩa Mác- Lênin, chỉ có chủ
nghĩa xã hội, mới làm cho đất nước phát triển hay không ? … Vậy hãy cứ xem
quanh ta: Đài Loan, Đại Hàn, Singapore và thêm nữa, Thái Lan và Malaysia, mấy
nước này có do chủ nghĩa Mác-Lênin hướng dẫn không? … Thế mà cả 5 nước ấy, khi
bắt đầu còn nghèo khổ, vậy mà chỉ sau khoảng 20-30 năm họ đã trở thành những
nước phát triển rõ ràng, nhân dân đa số có đời sống khá phong lưu….
22.11.2000
-
Trên thế giới có đến hơn 100 nước không cần chủ nghĩa Mác- Lênin và
chủ nghĩa xã hội, không cần có Đảng cộng sản “tài tình” và “sáng suốt” mà cứ
phát triển đến trình độ giàu có, văn minh cao…
3.12.2000
“Thực ra, chủ nghĩa
Mác rất nhân đạo, rất nhiều lòng tốt, nó chỉ ra cho loài người một tương lai
sáng lạn: sẽ không có tư hữu, do đó không có bóc lột, thế là cuộc sống xã hội
hoàn toàn công bằng và dân chủ.
Nhưng thực tiễn cuộc sống chỉ ra rằng nó không thể đơn giản như vậy. Hình ảnh ấy chỉ là một cái bánh vẽ khổng lồ… Thế mà Đảng lại cứ bắt mọi người phải tin theo vào cái ảo tưởng hão huyền đó. Như thế là phạm vào một tội ác lớn với nhân dân.
Đảng cộng sản Việt Nam cứ gân cổ gào lên cái định hướng xã hội chủ nghĩa theo kiểu như vậy, thật ra là một sự mù quáng, một sự điên cuồng…”
Nhưng thực tiễn cuộc sống chỉ ra rằng nó không thể đơn giản như vậy. Hình ảnh ấy chỉ là một cái bánh vẽ khổng lồ… Thế mà Đảng lại cứ bắt mọi người phải tin theo vào cái ảo tưởng hão huyền đó. Như thế là phạm vào một tội ác lớn với nhân dân.
Đảng cộng sản Việt Nam cứ gân cổ gào lên cái định hướng xã hội chủ nghĩa theo kiểu như vậy, thật ra là một sự mù quáng, một sự điên cuồng…”
***
Như
vậy, khi ông còn là một Ủy viên Trung Ương thì chủ nghĩa Mác- Lênin là “mặt trời
chân lý, vằng vặc sáng soi khắp chỗ”; còn khi ông bị cách chức thì chủ
nghĩa Mác- Lênin là “không cần thiết”
nó không “sáng soi” được cái gì nữa
mà chỉ vẽ ra được “cái bánh vẽ khổng lồ”!
Có điều viết vậy chứng tỏ ông mới hiểu Chủ nghĩa Mác sơ sài qua những hiện
tượng trong thực tế chứ chưa hiểu sâu sắc Chủ nghĩa Mác với tư cách là một Khoa
học Triết học. Chủ nghĩa Mác cho rằng khi xã hội phát triển đến mức không còn
mâu thuẫn chủ yếu, không còn giai cấp, thì Nhà nước, với ý nghĩa là sự thống
trị của một giai cấp sẽ không còn lý do để tồn tại, con người sẽ “làm theo năng lực hưởng theo nhu cầu” và
“sự phát triển tự do của mỗi người là
điều kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi người”. Đây là một sự suy
lý mang tính khoa học. Nếu hiểu khoa học thì sự suy lý đó hoàn toàn có cơ sở
chứ chẳng có “bánh vẽ” cái gì hết! Từ
Bigbang, một điểm siêu năng lượng vô cùng nhỏ, còn có thể biến thành cả vũ trụ
ngày nay thì sự tiên đoán của Chủ nghĩa Mác có gì là không tưởng. Nhìn lại hơn
thế kỷ qua, tức mới chỉ là một chớp mắt của lịch sử tiến hóa, xã hội loài người
đã thay đổi biết bao rồi. Có điều hiểu được toàn diện và sâu sắc chủ nghĩa Mác
đã khó nên vận dụng cho đúng vào thực tiễn càng khó khăn hơn.
Nếu
ở cuốn đầu ông viết: “có những yêu
cầu nâng cao sức lãnh đạo của Đảng… thì tạm coi là một ý kiến tích cực.
Nhưng, từ những ý kiến đó mà đi tới một sự chê bai, châm chọc, thậm chí phủ
nhận sự lãnh đạo của Đảng thì là những ý kiến phản động” thì cuốn
sau với những dòng sau thì không cần đến ai mà chính “Trần Độ ở cuốn trước” đã kết án “Trần Độ ở cuốn sau” là “phản
động”:
“ 7.12.2000
Tiếp tục câu hỏi lớn: cuộc cách mạng Việt Nam đã đem lại được cái gì cho nhân dân Việt Nam ?
Cứ xem xã hội Việt Nam
hiện nay, cuộc sống Việt Nam hiện nay, thì có thể thấy một nét lớn rất đau lòng
là: tất cả những gì xấu xa, tàn bạo, mà cách mạng đã có lúc xoá bỏ và đập tan
thì nay đang được khôi phục lại hoàn toàn, mà khôi phục lại còn mạnh hơn, cao
hơn, nhân danh cách mạng”.
Không
cần phải lấy thực tế chứng minh nhận định của ông như trên là xổ toẹt, mà chính
ông cũng đã viết ngược lại vào ngày 22.12.2000:
“Việt Nam từ một xã hội thuộc địa tiểu nông
lạc hậu dưới hai tầng thống trị của thực dân, phong kiến đã trở thành một xã
hội của một đất nước được thống nhất, độc lập và tự do. Từ một dân tộc hầu như
mù chữ đã trở một dân tộc đầy trường học, có hàng trăm trường đại học, có
hàng vạn giáo sư tiến sỹ, cử nhân, hàng triệu tú tài, hàng năm đều
có gần 100% trẻ em 7 tuổi đến trường”.
Và,
đến những ý ông viết vào ngày 7.12.2000 thì ta mới hiểu tại sao Dương Thu Hương
cho rằng “Anh Trần Độ đã đứng hẳn về phe
chúng tôi ” và “chúng
tôi cảm phục ông”:
“Nền chuyên chính tư tưởng hiện nay ở Việt
Nam là tổng hợp các tội ác ghê tởm của Tần Thủy Hoàng và các vua quan tàn bạo
của Trung Quốc, cộng với tội ác của các chế độ phát xít, độc tài. Nó tàn phá cả
một dân tộc, hủy hoại tinh anh của nhiều thế hệ. Xét đến cùng, đó là tội nặng
nhất về sự vi phạm nhân quyền”.
Xã
hội VN hiện tại rõ ràng còn nhiều vấn nạn mà các nhà lãnh đạo hiện đang “xử
lý”. Nhưng không thể một sớm một chiều mà mọi chuyện đều tốt đẹp được. Triết
học Mác cũng đã chỉ rõ bằng cặp phạm trù "lượng đổi chất đổi". Nước
ta vốn là một nước phong kiến nô lệ, nên phải biến đổi cái "lượng" yếu
kém, lạc hậu thành cái "lượng" văn minh, tiên tiến để thành một
"chất" khác quả là gian nan. Dù vậy, kết án như Trần Độ ở trên là cực
đoan và không khách quan. Giả sử ông và phe ông thắng thế, nắm quyền, đúng như
cách hành xử trên, thì đối với những người phê phán sai lầm của các ông, khi
ông quy họ là "Tần Thủy Hoàng", là "Phát xít", thì không
biết họ sẽ bị các ông đối xử như thế nào? Và như vậy sẽ là “dân chủ”, “tiến bộ”
sao?
TPHCM
16-10-2012
ĐÔNG LA