Nguyễn Văn Thịnh
LẠI NÓI CHUYỆN LỊCH SỬ
(TỪ TÍCH HỢP ĐẾ SANG NGỌN
ĐUỐC?)
Trong
cuộc tọa đàm bàn tròn của đài BBC ngày 22/11/2015 về đề tài tích hợp môn sử ở
cấp học phổ thông mà nhà đài lại lái sang “biểu tượng ngọn đuốc sống Lê Văn Tám
là ngụy tạo! là nói láo! Liệu có cách thức nào giải quyết ổn thỏa chuyện này”?
Lập tức ông GS. sử học Ngô Vĩnh Long (Đại học Maine ,
Hoa Kỳ) bập ngay vào: “Trước hết là chuyện Lê Văn Tám ấy, khi dạy lịch sử mình
phải lập lại tại sao người ta đã lập lên chuyện Lê Văn Tám, bởi vì cái này nó
trở thành vấn đề lịch sử của Việt Nam . Nếu mà một đất nước, một dân
tộc mà nói láo thì phải hiểu tại sao mình nói láo? Mình nói láo là vì mình yêu
nước phải không? Nếu mà yêu nước mà nói láo như vậy có thể là không đúng thì
mình phải học được bài học lịch sử này. Vấn đề này tôi đã nói không phải là vấn
đề lịch sử nữa, mà nó là vấn đề xã hội, vấn đề luân lý, vấn đề con người”.
Trong dịp Chủ tịch nước Trương Tấn Sang đáp lời mời sang thăm Đức của Tổng
Thống Joachim Gauck. Tại buổi Chủ tịch gặp gỡ với cộng đồng người Việt Nam ở
đây, báo Tuổi trẻ ngày thứ bảy 28/11/2015 lược ghi bài phỏng vấn TS Nguyễn Văn
Cường (Đại học Postdam, Đức), như sau: “Tích hợp và dạy học theo chủ đề liên
môn là xu hướng quốc tế, là một biện pháp phát triển năng lực học sinh, tuy
nhiên nó đòi hỏi nhiều điều kiện. Ở ta, trong quá trình cải cách giáo dục đã
cập nhật xu hướng này là rất tốt, tuy nhiên đi vào cụ thể thì có nhiều nội dung
cần bàn. Xu hướng tích hợp trên thế giới có nhiều mức độ khác nhau. Ngay ở Đức,
tích hợp các môn học, họ cũng làm một cách thận trọng. Chúng ta nên làm từng
bậc một, làm tới đâu chắc tới đó”. Ngày 27/11/2015, trước khi bế mạc kỳ họp thứ
10 khóa 2011-2015, Quốc hội CHXHCN Việt Nam đã ra nghị quyết vẫn giữ Sử học là
một môn riêng trong chương trình giáo dục phổ thông.
Việc
tích hợp các môn học có liên quan với nhau là phương thức mới của khoa học giáo
dục nhằm tinh giản chương trình giảng dạy, tránh sự trùng lặp để học sinh khỏi
bị nhàm chán, chứ không chỉ với riêng môn sử. Đó là vấn đề thời sự nghiêm túc
của khoa học giáo dục, đang ở giai đoạn đầu khởi xướng và cần nhiều thời gian
trải nghiệm, kiểm chứng để được vận dụng rộng rãi ở các hệ thống giáo dục trong
thế giới hội nhập. Nó đòi hỏi nhiều công sức, trí tuệ, tâm đức của các nhà giáo
dục, nhà khoa học và các bậc phụ huynh. Vậy mà từ chuyện “tích hợp”, người ta
đế cái chuyện “ngọn đuốc” ấy vào! Khốn nỗi không ít vị học hàm học vị cùng mình
mà bốn mắt vẫn mờ, đeo máy tăng âm mà tai vẫn điếc, bị mắc bẫy mấy anh nhà báo
lọc lõi với nghề truyền thông xọc xịa! “Đây là lần đầu tiên câu chuyện “không
có thật” này được chính thức công nhận từ một người có trách nhiệm cao nhất của
giới sử học Việt Nam
hiện nay – Gs Phan Huy Lê. Điều đáng ngạc nhiên là sau khi Gs Phan Huy Lê tiết
lộ sự thật về Lê Văn Tám, không một tờ báo hay một cơ quan truyền thông nào của
VN đăng tin này”! Khẩu khí của nhà báo được coi như lời khẳng định. Khéo thay!
Tấm
gương anh hùng Lê Văn Tám đã trở thành ngọn đuốc thiêng của lòng yêu nước Việt
Nam suốt trong mấy mươi năm chiến tranh gian khổ khốc liệt, đã động viên thôi
thúc lớp lớp người “quyết tử cho tổ quốc quyết sinh” để có một nước Việt Nam
hòa bình, thống nhất, độc lập ngày nay. Nó như một sự kiện đã được đóng đinh
vào lịch sử thì cần chi phải thanh minh, giải thích. Như câu chuyện đặt điều Cụ
Hồ là một người Đài Loan thế mạng vì Nguyễn Ái Quốc thật đã chết ở trong tù!
Chỉ ai ngớ ngẩn mới tin, vì để bày tỏ lòng biết ơn vị ân nhân, vào giữa những
năm 1960, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã mời ông bà luật sư Loseby cùng con gái sang
thăm Hà Nội. Sự kiện công khai trên các phương tiện truyền thông, người Việt Nam nào chẳng
biết? Nhiều lãnh tụ tầm cỡ như Chu Ân Lai, Lưu Thiếu Kỳ… ở Trung Quốc và Nêrhu
ở Ấn Độ, thời trẻ từng ở Paris, cùng hoạt động với nhà yêu nước Nguyễn Ái Quốc
trong “Hội các dân tộc thuộc địa ở Á châu”, sau này lại gặp nhau trên cương vị
nguyên thủ quốc gia, họ lạ chi nhau.
Ở
đây, người viết chỉ đề cập tới chuyện “thằng Tám tẩm dầu” đốt kho xăng giặc ở
Thị Nghè, người Sài Gòn và miệt miền Tây, ai chẳng từng nghe. Hiện giờ nhiều
người vẫn còn đang sống.
Ngọn
lửa ấy sáng bừng lên đêm 17/10/1945 ngay tại khu Thị Nghè-Gia Định trong những
ngày đầu nhân dân Nam bộ hừng hực khí thế chống ngoại xâm, với lời kêu gọi của
Ủy ban kháng chiến Nam bộ dán đầy tường, trên các gốc cây, rải trắng đường
phố, theo những chuyến xe đò lan về vùng phụ cận và lục tỉnh, như sau:
“Đồng
bào Nam
bộ!
Nhân
dân thành phố Sài Gòn!
Anh
em công nhân, thanh niên, tự vệ, dân quân, binh sỹ!
Đêm
qua thực dân Pháp đánh chiếm trụ sở chính quyền ta ở trung tâm Sài Gòn.
Như
vậy là Pháp bắt đầu xâm chiếm nước ta một lần nữa.
Ngày
2 tháng 9, đồng bào đã thề quyết hy sinh đến giọt máu cuối cùng để bảo vệ độc
lập của Tổ quốc:
“Độc
lập hay là chết!”
Hôm
nay Ủy ban kháng chiến kêu gọi:
Tất
cả đồng bào già trẻ gái trai hãy cầm võ khí xông lên đánh đuổi quân xâm lược.
Ai
không có phận sự do Ủy ban kháng chiến giao phó thì hãy lập tức rời khỏi thành
phố. Những người còn ở lại thì:
-
Không làm việc, không đi lính cho Pháp.
-
Không đưa đường không báo tin cho Pháp.
-
Không bán lương thực cho Pháp.
-
Hãy tìm thực dân Pháp mà giết.
-
Hãy đốt sạch tất cả các sở, xe cộ, tàu bè, kho tàng, nhà máy của Pháp.
Sài
Gòn bị Pháp chiếm phải trở thành một Sài Gòn không điện, không nước, không chợ
búa, không cửa hàng.
Hỡi
đồng bào!
Từ
giờ phút này nhiệm vụ hàng đầu của chúng ta là tiêu diệt giặc Pháp và tiêu diệt
tay sai của chúng.
Hỡi
anh em binh sỹ, dân quân, tự vệ! Hãy nắm chặt võ khí trong tay, xông lên đánh
đuổi thực dân Pháp, cứu nước.
Cuộc
kháng chiến bắt đầu!
Sáng
ngày 23 tháng 9 năm 1945
Chủ
tịch Ủy ban kháng chiến Nam
bộ
TRẦN
VĂN GIÀU
Dẫn
lại nguyên văn lời hiệu triệu lịch sử ấy để bạn đọc liên tưởng nếu sống trong
bối cảnh xã hội lúc bấy giờ thì bất kỳ ai già, trẻ, gái, trai, dù là trí thức
hay dân thường, tất phải làm gì? Chỉ những kẻ lòng dạ bất trắc mới đang tâm làm
tay sai cho giặc, phản lại tổ quốc, trong khi những kẻ ươn hèn yếu đuối sẽ nằm
nhà chùm chăn chờ xem thời thế. Ông Trần Văn Giàu là nhà yêu nước nhiệt thành,
nhà cách mạng chân chính, là người có trọng trách lớn thời kỳ đầu Nam bộ kháng
chiến, là sử gia tâm huyết, đã “khẳng định là có sự kiện kho xăng địch ở Thị
Nghè bị đốt cháy và trong tình hình lúc đó là do ta đốt, nhưng không biết do ai
tổ chức và người nào thực hiện”. Thế hệ U40 ngày đó rất quen thuộc với những
bài ca yêu nước như “Em bé tẩm dầu”, “Anh Bát sắt”… Bà Trịnh Ngọc Hạnh – nguyên
Giám đốc Thư viện khoa học tổng hợp TPHCM, đã nghỉ hưu, hồi đó ở Giồng ông Tố,
là chiến sỹ của Chi đội Bảy tỉnh Bà Rịa, sau phiên chế thành Trung đoàn 307,
nay tuổi đã cao nhưng vẫn còn hát được những bài ca yêu nước thuộc nằm lòng từ
thời con gái: “Cuộc kháng chiến Việt Nam có biết bao nhi đồng/ Đã hiến thân
liều mình vì nước/ Gương em bé tẩm dầu xông vào kho xăng… lửa cháy bùng lên/ Từ
đây tên em nêu cao trên bảng vàng son…” và “Anh Bát Sắt ơi/ Tinh thần anh cao
qúy thay/ Anh là một người anh hùng thiếu niên/ Anh đặt Tổ quốc lên trên gia
đình…”. Trong lúc vận nước ngả nghiêng, đến những chú bé cũng biết “đặt Tổ quốc
lên trên gia đình” thì sự kiện “ngọn đuốc sống” có gì lạ đâu? Nhiều chiến sỹ
dũng cảm hy sinh, lai lịch cụ thể ra sao nào mấy ai được biết. Nó khác hẳn với
lời nói mơ hồ nước đôi của nhà sử học Phan Huy Lê lúc đó còn đang là chú học
trò mươi mười lăm tuổi ở mãi đâu đâu, sau này có ghế vị, lời nói có thép có
gang là bởi được hưởng phúc lộc của các bậc tiền nhân anh hùng liệt sỹ, đã hàm
hồ phủ nhận:“Nhân vật lịch sử anh hùng Lê Văn Tám là hoàn toàn không có thật!” để
không ít người nhẹ dạ vội tưởng rằng con người Lê Văn Tám và sự kiện anh hùng
ấy là ngụy tạo!
Những
nhà sử học khi nghiên cứu lịch sử Việt Nam đều kính cẩn ngả mũ cúi đầu
trước hàng chục cuộc chiến tranh chống xâm lược từ các nước lớn hơn rất nhiều
lần về mọi mặt. Đặc biệt trong cuộc kháng chiến chống xâm lược phương tây vừa
qua, nay còn rất nhiều nhân chứng. Đó là cuộc chiến tranh nhân dân, mỗi người
đều là chiến sỹ, gặp giặc là đánh, vũ khí là bất cứ cái gì có được, thậm chí dù
chỉ tay không, chiến trường là bất cứ nơi nào có bóng quân thù. Thắng lợi là
chiến công chung, không ai nghĩ đến công mình và đồng đội cũng không kịp tìm
hiểu chiến công đó là của riêng ai: gái trai, tên họ, tuổi tác, quê quán. Trong
hoàn cảnh ấy, dù không biết chiến sỹ hành động thế nào nhưng vẫn một lòng cảm
phục, càng nung nấu ý chí căm thù quân cướp nước và mỗi người lại nghĩ ra một
hình thức chiến đấu mà mình có thể. Những tấm gương cụ thể chỉ là biểu tượng
cho sự hy sinh âm thầm lặng lẽ của bao nhiêu chiến sỹ vô danh mà công trạng có
khi còn lớn hơn rất nhiều lần. Đó là điều hiển nhiên, người thời ấy mấy ai cho
là sự lạ huống chi những nhà sử học!
Về
ngọn đuốc thiêng Lê Văn Tám, dù là tên thật hay ẩn danh nhưng đã thành bất tử
trong lòng dân tộc và hiển hiện bằng hình tượng một thiếu niên thiên thần có
cánh trong một công viên mang tên người con dũng cảm của dân tộc giữa lòng
thành phố Hồ Chí Minh đang từng ngày đổi mới đi lên. Đó là sự tôn vinh với
những liệt sỹ anh hùng vì nước quên thân. Những thế lực đen tối không chỉ muốn
xô đổ một tượng đài Lê Văn Tám mà sẽ lấn lướt đi tới xóa bỏ mọi chiến tích xứng
đáng là niềm tự hào của nhân dân ta trong thời đại Hồ Chí Minh, hòng thay vào
đó hình hài của những kẻ coi rẻ quyền lợi của dân tộc mình, cúc cung phụng sự
các thế lực ngoại bang xâm lược. Một ông cỡ bậc thầy nói toạc móng heo: “Với
cái đà này rồi đây người ta cũng phải nghĩ đến việc đổi tên các công viên,
trường học mang tên Lê Văn Tám thành công viên Gia Long, trường Trương Vĩnh Ký”!
Mới hay: Chống giặc mạnh dù phải gian khổ trường kỳ, ngày thắng lợi rồi cũng
đến; mà chống lại nền văn hóa nô dịch ngoại lai vong bản, chẳng những cần có
bản lĩnh vững vàng, sự kiên trì chăm chút bồi đắp công phu mà lại không thể coi
như chống giặc, càng không thể giới hạn thời gian.
Xin
nêu một số bằng chứng có căn cứ cụ thể để độc giả khỏi mất công tìm:
-
Báo Cứu quốc số 74 ra ngày 23/10/1945 đưa tin trong cuộc họp báo tại Hà Nội, Hồ
Chủ tịch nói: “Sự hy sinh của đồng bào ta trong cuộc chiến đấu oanh liệt trong
Nam bộ bây giờ, cái cử chỉ phi thường của một chiến sỹ tự tẩm dầu xăng vào mình
để vào đốt một kho dầu của bên địch, tỏ ra rằng một dân tộc đã có tinh thần cao
đến bậc ấy thì không sức mạnh nào có thể đè bẹp được”.
-
Lịch sử Đảng bộ TPHCM xác nhận sự việc thiếu niên Lê Văn Tám đốt cháy kho xăng
vào những ngày đầu Nam bộ kháng chiến và còn ghi rõ người tổ chức là đồng chí
Lê Văn Châu ở Gò Vấp, sau này hy sinh ở mặt trận Thị Nghè năm 1947. Trong hồi
ký của nhiều nhà lãnh đạo kháng chiến ở Sài Gòn lúc đó như Nguyễn Văn Linh
(Mười Cúc), Mai Chí Thọ (Năm Xuân) và sau này trong bài viết của ông Trần Trọng
Tân, đều khẳng định sự kiện này với tình cảm yêu thương, trân trọng.
-
Ông Hoàng Quốc Việt là một yếu nhân của chính quyền trung ương được cử vào Nam
bộ lãnh đạo cuộc kháng chiến chống Pháp lúc bấy giờ, trong hồi ký “Con đường
theo Bác” (NXBThanh niên - 2003) viết: “Thanh niên và thiếu nhi Sài Gòn chiến
đấu với tinh thần “bóp nát quả cam” của Trần Quốc Toản năm xưa. Hình ảnh em
thiếu niên Lê Văn Tám đốt cháy kho xăng địch tại Thị Nghè để lại một ấn tượng
sâu sắc trong lòng nhân dân. Nhìn kho xăng bốc cháy, tiếng đạn nổ, khói tỏa mịt
mùng ai nấy tự hào về sức sống mãnh liệt của một em thiếu nhi nghèo khổ của Sài
Gòn”.
-
Đại tá Võ Thành Khiết, cựu chiến binh ở Quận 10, sinh năm 1929, quê ở xã Tân
Bửu, Trung Huyện, tỉnh Chợ Lớn (nay thuộc địa bàn huyện Bình Chánh và Bến Lức).
Năm 1940 lên học ở Sài Gòn. Sau ngày Nhật đảo chánh Pháp 9/3/1945, về quê, tham
gia Thanh niên tiền phong. Ngày 24/8/1945, tham gia cướp chính quyền ở tòa Bố
tỉnh Chợ Lớn. Sau đó làm liên lạc cho báo “Kèn gọi lính” của ta và cho Ủy ban
kháng chiến Sài Gòn-Gia Định đóng tại quê ông. Năm 1947, vào du kích Hạ Trung
Huyện, rồi lên trung đoàn 308 Nguyễn An Ninh do ông Huỳnh Văn Một chỉ huy, liên
tục chiến đấu ở vùng Chợ Lớn cho đến năm 1950 thì được đi học Trường Quân chính
Khu VII đóng ở Bời Lời, Trảng Bàng, Tây Ninh. Ông kể thời kỳ làm liên lạc,
thường xuyên ra vào thành phố lấy tin tức: “Có hai sự kiện xảy ra trên địa bàn
cách nhau chừng vài trăm mét trong khoảng thời gian khá gần nhau, nhưng lâu quá
rồi dễ lẫn. Cả hai sự kiện trên đều được báo chí kháng chiến và báo chí nội
thành lúc ấy phản ánh khá đầy đủ, có thể sưu tra để phản ảnh đúng sự thật lịch
sử. Đạn nổ điếc tai, lửa khói ngất trời thì cả thành phố ai mà không biết. Hôm
sau đồn rầm lên những tin truyền khẩu rồi mới là trên báo chí. Do đơn vị nào
đánh thì không biết nhưng thiệt hại của nó và tâm lý địch, ta thì biết. Dù
không chính xác nhưng báo chí của nó đã nêu lên một phần sự thật. Vụ đánh kho
đạn Sở thú còn có tên là Pyrotechnique, nằm trên đường Docteur Angier (nay là
đường Nguyễn Bỉnh Khiêm, ngang với Bảo tàng lịch sử thành phố trong Thảo cầm
viên) vốn là một doanh trại, toàn lính lê dương canh gác, lại gần Tổng hành
dinh của tướng Le Clerc nên được bố phòng cẩn mật, bị một tổ vũ trang của ta
đánh nổ đêm 8/4/1946. Vụ đốt cháy kho xăng Thị Nghè vào đêm 17/10/1945 (Có
nguồn tin nói xảy ra ở kho Khánh Hội có tên là Simon Piétry bên Quận 4 hiện
nay. Mong được các vị lão thành, các nhà địa chính học Sài Gòn xác minh), người
làm việc đó được truyền nhau là em Tám. Còn tiến hành như thế nào thì làm sao
biết được. Vùng này lúc đó phức tạp, cả ta và tây đều không làm chủ được, tập
trung rất nhiều trẻ em lang thang cơ nhỡ và có tinh thần đánh tây hăng lắm. Khi
lửa phật lên, xăng phụt ra bắt cháy. Gọi là “ngọn đuốc sống” cũng không có gì
là qúa. Ngay hôm sau, báo chí đã lên tít lớn và còn mô tả khá là chi tiết. Lớp
thiếu niên chúng tôi thời ấy đều được học tập noi theo tấm gương em Tám. Hãy
coi như một cái tên lịch sử”!
-
Ông Hồ Thanh Điền (Hai Điền: 1926-2014), lão thành Cách mạng, đội viên Thanh
niên Tiền phong đoàn Trần Cao Vân, sau thuộc Chi đội 13 (tiền thân của trung
đoàn 300). Năm 1952 được ra Việt Bắc, qua Trung quốc học. Từ 1956 làm Tiểu đoàn
trưởng bảo vệ bờ bắc cầu Hiền Lương. Sau 1975 chuyển sang ngành công an, làm bí
thư Đảng ủy công an tỉnh Đồng Nai, nghỉ hưu tại TP.Biên Hòa. Lúc sinh thời,
người viết được nghe ông kể: “Tôi không phải là chứng nhân trực tiếp nhưng là
người biết rất sớm chuyện này. Lúc đó đơn vị tôi đóng quân ở Trung Chánh. Ngay
sớm hôm sau khi cháy kho xăng Thị Nghè, Nguyễn Thanh Hùng là chiến sỹ của tiểu
đội tôi, nhà ở Đa Kao, chạy về báo tin: Thằng Tám trong xóm nhà tui là người
đốt kho xăng hồi hôm đó!”. Ông Hùng đã hy sinh trong kháng chiến chống Pháp!
Nay còn ông Phạm Văn Đông là đồng đội vong niên, nhà ở 22/3 Hồ Văn Đại, KP3,
TP.Biên Hòa, nhiều lần được nghe ông Hai Điền kể chuyện này.
-
Trong hồi ký “Đứng lên đáp lời sông núi – tập II” (NXB Thanh niên – 1995) của
Trần Thắng Minh (nguyên UVTƯ Đoàn TNCSVN) cho biết Lê Văn Tám là bạn trong đội
thiếu niên ở Đa Kao với ông. Bạn đọc cần lưu ý là cuốn sách được viết ra 10 năm
trước khi ông Phan Huy Lê phủ định chuyện này! Ông Hồ Thanh Điền và ông Trần
Thắng Minh thuộc hai thế hệ, không quen biết nhau.
-
Người có công tôn vinh “ngọn đuốc sống Lê Văn Tám” là nhà văn Phan Vũ. Ông nói:
“Tôi người Hải Phòng, Vệ quốc quân Nam tiến. Những năm ở chiến trường
tây Nam
bộ tôi có nghe chuyện một thiếu niên Sài Gòn tên Tám, dũng cảm xông vào đốt
cháy một kho xăng. Chuyện chỉ có thế nhưng cái chết của em cứ lởn vởn trong tâm
não tôi. Năm 1954, tập kết ra Bắc, niềm thương nỗi nhớ miền Nam làm cho
hình ảnh em bé đốt kho xăng sống dậy, tôi dồn tâm sức viết vở kịch “Lửa cháy
lên rồi”. Không nhớ được tại sao tôi lấy họ Lê đặt cho em. Thật ra cái tên
không quan trọng mà sự kiện mới là nguồn cảm hứng cho người viết. Không ngờ vở
kịch thành công lớn quá, sôi động một thời. Nhiều buổi diễn, từ trên cánh gà
nhìn xuống, tôi thấy những bàn tay nâng khăn lên chấm mắt ở những tiểu cảnh cảm
động. Tôi sung sướng quá cũng trào ra nước mắt. Ông Thế Lữ khen và nhận
tôi làm con nuôi để dạy thêm nghề. Vở kịch được đưa vào Phủ Chủ tịch diễn Bác
Hồ xem. Tôi cùng đi trong đoàn. Bác hỏi tôi chuyện này có thật không? Tôi thưa
thật rằng chỉ được nghe kể như thế rồi sáng tác ra. Bác khen và động viên tôi.
Trong vở kịch này, tôi không dựng chi tiết em Tám châm lửa chạy vào đốt kho
xăng mà tạo tình huống cho em làm quen tới mức kết thân với một tên lính coi
kho để được ra vào tự nhiên trước sự mất cảnh giác của giặc. Cuối cùng thì… lửa
cháy lên rồi và em thành bất tử”! Năm 1982, xưởng phim Nguyễn Đình Chiểu TPHCM
dựng bộ phim “Ngọn lửa thành đồng” dựa trên kịch bản của tôi do anh Lê Mộng
Hoàng đạo diễn. Tổ chức Đoàn thanh niên có bàn với tôi lập hồ sơ truy phong anh
hùng cho Lê Văn Tám nhưng tôi không biết gì hơn những điều tôi đã viết về con
người ấy”.
Dù
thời gian đã qua hơn 60 năm nhưng hẳn là còn nhiều bằng chứng chưa được khai
thác hết. Đã có lớp lớp người tiếp bước tấm gương vì nước quên thân cao cả ấy
để tổ quốc Việt Nam được về lại với con Lạc cháu Hồng, thì bỗng dưng từ một bản
tin của phóng viên Khôi Nguyên đài BBC phát đi làm xôn xao dư luận: “Tại cuộc
họp mặt của hãng phim Truyền hình Việt Nam vào cuối tháng 2/2005 tại Hà Nội, GS
Phan Huy Lê là một trong hai nhà sử học (ông Dương Trung Quốc) được mời dự, đã
tiết lộ: Nhân vật lịch sử anh hùng Lê Văn Tám là hoàn toàn không có thật!”. Vì
sao chỉ với mấy lời phát ngôn bất chợt của ông chánh sử gia trong cuộc họp mặt
chẳng mấy liên quan tới sử học, lại dựa vào uy tín của một nhà cách mạng, một
sử gia bậc thầy đáng kính đã khuất bóng từ lâu, để đưa ra một sự kiện lịch sử
rất nhạy cảm trong bối cảnh xã hội hiện nay, làm lung lạc niềm tin của không ít
người kể cả những người gọi là nhiều chữ?!
Phải
chăng một nước Việt Nam từng bị xóa tên trên bản đồ thế giới nay đang phục hưng
và là niềm tin vào sức mạnh chính nghĩa của những người có lương tâm trên thế
giới, của những dân tộc bị mất quyền độc lập tự chủ bởi những nước lớn quen ỷ
thói cường quyền áp chế? Thắng lợi của cách mạng Việt Nam càng được khẳng định,
nước Việt Nam càng phát triển thì không ít người với động cơ bất chính, lợi
dụng thời cơ “hội nhập” bám vào đủ các thế lực bên ngoài, ra sức xuyên tạc sự
thật lịch sử, đặt điều phủ nhận mọi thành tích chiến công mà nhân dân ta đã
quên mình làm nên những kỳ tích vẻ vang được cả nhân loại tiến bộ thừa nhận với
lòng ngưỡng mộ. Như ở Nga, khuynh hướng phủ định sạch trơn những thành tựu hiển
nhiên thời Liên bang xô viết vẫn len lỏi vào mọi địa hạt của đời sống văn hóa,
đặc biệt là trong môi trường giáo dục. Những người lương thiện không thể không
nhận ra những việc làm bất minh ấy.
Khi
tung ra lời nói giật gân như thế, ông Phan Huy Lê úp mở tiết lộ dần ra: “Anh
Trần Huy Liệu tự viết về nhân vật Lê Văn Tám, một thiếu nhi tự tẩm xăng vào
người và chạy vào đốt kho xăng giặc Pháp ở Thị Nghè”! Nghĩa là ông trùm truyền
thông lúc đó ngồi ở Hà Nội “bịa” ra một chú bé Lê Văn Tám ở Sài Gòn với hành
động huyễn tưởng liều mạng thí thân để lừa mị nhân dân cả nước! Coi như một món
hàng có giá, ông Lê tiếp thị: “Tôi đã và đang viết bài để công bố sự thật về
nhân vật này (Lê Văn Tám) một cách chi tiết và thấu đáo, nhất là dưới góc nhìn
của lịch sử và tôi dự định trong thời gian sớm nhất”. Nhưng vì “không muốn việc
của mình bị cuốn vào các sự kiện lớn khác, phải cần một điều kiện bình thản
hơn, chờ đợi một dịp thuận lợi và nhất định tôi sẽ làm”! Tưởng rằng ông Phan
Huy Lê sẽ dập tắt ngay “ngọn đuốc Lê Văn Tám” bởi đó là chuyện do ông Trần Huy
Liệu “bịa” ra! Hơn bốn năm sau, câu chuyện râm ran và càng lan rộng gây bất an
lòng người và công luận phản ứng bất bình, ông Lê chối khéo bằng những lập luận
loanh quanh, mơ hồ, lắt léo! Để chứng tỏ cách làm việc rất chi là khoa học, ông
Lê mất công lần mò đi “hỏi một số bác sỹ, và họ cho rằng với sức nóng của lửa
xăng, một em bé không thể chạy xa như vậy (50mét)”! Ai cũng biết thập niên
1960, để phản đối cuộc chiến tranh phi nghĩa của giới cầm quyền hiếu chiến Mỹ ở
Việt Nam, tại Sài Gòn và ngay cả bên nước Mỹ đã có hàng chục người nam nữ già
trẻ tự thiêu, được đăng tải trên trang nhất các báo, kèm hình ảnh rất chi là
xúc động. Có ông bác sỹ nào dớ dẩn dám quả quyết phán rằng trong ngọn lửa bừng
bừng, một người tự thiêu bất kể lớn bé sẽ ngã lăn quay tại chỗ hoặc có thể chạy
thêm được bao nhiêu mét nữa? Bất luận gì thì kho xăng địch bốc cháy từ mồi lửa
do một chiến sỹ gây nên. Phải chăng khi tâm con người ta động thì sinh ra tà ý và
độc miệng?!
Ông
Lê đổi ý ngược với những lời ông đã tung ra mấy năm về trước: “Lê Văn Tám không
phải là tên nhân vật lịch sử có thật nhưng phản ánh một sự kiện lịch sử có
thật, một tinh thần hy sinh vì Tổ quốc có thật. Đó là một biểu tượng đã đi vào
lịch sử mang tính phổ biến và thiêng liêng” với những lời giải thích vòng vo:
Ông Trần Huy Liệu vì “không biết ai là người tổ chức và trực tiếp đốt kho
xăng nên tôi (GS.THL) đã dựng lên câu chuyện thiếu niên Lê Văn Tám tẩm xăng vào
người rồi xông vào đốt kho xăng địch cách đấy mấy chục mét”, và “trên cơ
sở sự kiện có thật chỉ dựng lên theo cách nói của giáo sư (THL) chuyện thiếu
niên tẩm xăng đốt cháy kho xăng địch”, khi “dựng chuyện thiếu niên Lê Văn Tám
là nghĩ đến biểu tượng cậu bé anh hùng làng Gióng (Phù Đổng Thiên Vương)”! (Tạp
chí Xưa và Nay số 340 tháng 9/2009).
Thừa
nhận sự kiện “một chiến sỹ dũng cảm đốt kho xăng là có thật và là một biểu
tượng đã đi vào lịch sử mang tính phổ biến và thiêng liêng” thì việc chi ông Lê
phải dùng những lời lẽ giật gân úp mở làm rùm beng lên chỉ vì một cái tên? Nhằm
mục đích gì? Hoàng Văn Thụ, Lý Tự Trọng và nhiều yếu nhân thời mất nước, để
chống lại cường quyền có ai mang tên thật của mình đâu. Tưởng nhà sử học họ Lê
khôn mà dại, tự lòi cái đuôi ra. Chính ông dẫn chứng báo Kèn gọi lính ngày
?/10/1945 đưa tin: “Một thiếu niên 16 tuổi nhất định không nói tên, họ, làng,
tình nguyện lấy thân mình làm mồi dẫn hoả. Em quấn vải quanh mình, tẩm dầu
xăng, sau lưng đeo một cái mồi, đứng im đốt mồi lửa, miệng tung hô “Việt Nam vạn tuế”,
chân chạy đâm xầm vào kho đạn”. Ông Lý Châu Hoàn tìm được trong thư khố Hà Nội
và TPHCM các tờ báo Quyết chiến, Thời mới, Cờ giải phóng, Độc lập, kể cả báo
tiếng Pháp La République… vào thời điểm tháng 10+11/1945, khắp trong Nam ngoài
Bắc đăng tải chuyện đó rần rần với những tình tiết khác nhau, tựu chung đều ca
ngợi gương hy sinh oanh liệt của một thiếu niên tẩm xăng lên người lao vào đốt
cháy kho xăng địch. Báo Cứu quốc (cơ quan tuyên truyền tranh đấu của Tổng bộ
Việt Minh) số 71, ngày 19/10/1945 có bài “Một gương hy sinh dũng cảm oanh liệt”
kèm bài thơ “Lửa thiêng” của tác giả Đông Hà ca ngợi hành động anh hùng.
Vậy
thì ông Trần Huy Liệu còn gì để “chế biến” ra một Lê Văn Tám thứ hai? Muốn
thanh minh vì lỡ trớn với ông thầy, ông Lê cứ nói quẩn quanh: “Trên cơ sở sự
kiện có thật và cả dư luận về hình ảnh người chiến sỹ tẩm xăng thời đó, Gs Trần
Huy Liệu tạo dựng nên biểu tượng “ngọn đuốc sống” gắn với tên tuổi thiếu niên
Lê Văn Tám nhằm động viên tinh thần chiến đấu của quân dân trong những năm đánh
Mỹ (?!)”. Chả hiểu có thật ông Trần nghĩ xa quá xá: “GS còn tiên lượng là biết
đâu sau này có người đi tìm tung tích nhân vật Lê Văn Tám hay có người lại tự
nhận là hậu duệ của gia đình, họ hàng người anh hùng. Khi đất nước yên ổn, các
anh là nhà sử học, các anh nên nói lại giùm tôi, lỡ khi đó tôi không còn nữa”.
Thực tế là sau khi hòa bình ổn định, phong trào “đền ơn đáp nghĩa” được phát
động rộng khắp cả nước, việc tìm hài cốt liệt sỹ cá biệt có thể nhầm nhưng
không có chuyện nhận vơ.
Vốn
gốc nho học, chuyển sang tân học, ông Trần là nhà cách mạng chân chính, suốt
đời xông pha lận đận dấn thân vì đại nghĩa, đủ để hậu thế hiểu ông không chấp
nhận những việc làm cơ hội dù chỉ trong ý nghĩ. Nào đã ai được đọc truyện “em
bé tẩm dầu” của ông viết hay dở thế nào, ngay cả chính ông Phan Huy Lê nữa?
Truy tìm bài viết của bậc thầy không là điều khó vì thời gian chưa đã quá xa.
Thời kháng chiến chống Pháp? Nhà cách mạng Trần vướng đại sự “đào hoa lụy anh
hùng”. Giữa lúc đang ẩn dật, nho gia không lòng nào dựng tấm gương sáng rỡ của
một đứa trẻ để bêu ra danh tính của mình! Thời kháng chiến chống Mỹ? Ngay từ
giữa những năm 1950, lớp trẻ ở miền Bắc trong đó có anh sinh viên Văn khoa Phan
Huy Lê ở tuổi đôi mươi, mấy ai không biết Lê Văn Tám đã thành danh trong vở
kịch “Lửa cháy lên rồi” của nhà văn Phan Vũ? Ông Phan Huy Lê có nghĩ là mình
hại thầy không khi dẫn lời của người quá cố: “Giáo sư (Trần Huy Liệu) giải
thích là dựng chuyện thiếu niên Lê Văn Tám là vì họ Lê Văn rất phổ biến ở nước
ta và Tám là nghĩ đến cách mạng tháng Tám”?!
Ông
Phan Vũ, xấp xỉ cửu tuần mà vẫn còn sống khỏe, mắt tinh, tay khéo vẫn vẽ được
tranh. Người viết hỏi ông qua điện thoại về việc sử gia Trần viết chuyện chuyện
chú bé Lê Văn Tám tẩm dầu? Ông ngạc nhiên đáp: Chuyện ấy tới nay anh nói ra tôi
mới biết! Anh em Nam
bộ tập kết ra Bắc nói rằng chỉ sau khi có vở kịch của ông Phan Vũ mới biết chú
bé tẩm dầu mang đầy đủ họ tên: LÊ VĂN TÁM. Nguồn gốc cái tên TÁM muốn làm rõ ra
không là điều dễ trong tình hình chiến sự rối ren lúc ấy và kéo dài mấy chục
năm sau. Trước hết cái tên TÁM xuất hiện tại mặt trận Sài Gòn-Gia Định ngay sau
đêm kho xăng ấy cháy. Ai cũng biết tập quán người Nam bộ kêu thứ chớ không kêu tên.
Có khi tên trùng với thứ. Vậy TÁM là tên hay thứ? Cần chi làm một chuyện mất
công vô ích nữa!
Văn
nghệ TPHCM số 383 ngày 10/12/2015 bài “Sự thật về đuốc sống Lê Văn Tám” của Ông
Lý Châu Hoàn, sinh 1935, rất ấn tượng khi được nghe chuyện chú bé tẩm dầu như
một huyền thoại, đã đưa cậu bé Hoàn mười tuổi tham gia vào các hoạt động thiếu
nhi rồi tham gia kháng chiến, trưởng thành một nghệ sỹ trong ngành điêu khắc,
sau 1975 từng là Bí thư Đảng ủy khối các cơ quan phía Nam của Bộ văn hóa thông
tin du lịch, đã nghỉ hưu, cất công đi tìm về địa chỉ kho xăng Thị Nghè ngày ấy,
nay thuộc quận Bình Thạnh, khu vưc phường 19, 21, đường Ngô Tất Tố, cầu
Phú An. Bao nhiêu vật đổi sao dời, chứng nhân làm sao gặp được. Vài cư dân sống
lâu ở đây được nghe kể lại: Hồi đó có một em bé bán đậu phộng rang, thuốc lá,
diêm quẹt…tên TÁM, không rõ lai lịch, thường la cà quanh đây, ra vào kho bán
các mặt hàng và mua xăng dầu của người gác kho bán lén rồi đem ra ngoài bán.
Sau vụ cháy kho xăng không ai gặp lại, nghe nói là thằng TÁM đốt. Làm sao mà
giữa đồng đội, đồng bào quê hương với nhà sử học Trần Huy Liệu và nhà biên kịch
Phan Vũ, về không gian thì xa nhau tít mù, lại ở vào những thời điểm lịch sử
khác nhau mà cơ duyên nào đưa đẩy để có trùng một ý nghĩ ra cái tên TÁM thân
thương ấy, mới kỳ?
Ông
Phan Huy Lê thề rằng: “Tôi kể lại câu chuyện này một cách trung thực với tất cả
trách nhiệm và danh dự của một công dân, một nhà sử học”! Là nhà khoa học bậc
thầy sao ông có thể nói suông? Cho dù sự việc chính do ông Trần Huy Liệu nói ra
thì vẫn phải có bằng cớ thuyết phục trước bao nhiêu người đồng thời sống cùng sự
kiện, huống chi câu chuyện phiếm giữa hai thầy trò mà một người đã về cõi thiên
thu non nửa thế kỷ rồi và người đặt điều lại đưa ra những tình tiết tiền hậu
bất nhất đầy mâu thuẫn. Đều là nhà sử học, tại sao ông thầy không chỉ rõ đích
danh bài viết? Tại sao các trò không hỏi cho rõ ra sự thật? Tại sao ông Nguyễn
Đình Thanh, ông Nguyễn Công Bình đều là đồng môn, đồng tuế, đồng liêu, được ông
Lê gán cho là biết chuyện mà vẫn im hơi lặng tiếng trước sự bối rối của một
thân hữu đầy danh vọng? Giới sử học đã đem ra bàn luận mà sao không gỡ rối cho
bậc đàn anh? Nhà nghiên cứu sử Dương Trung Quốc nổi tiếng là người táo bạo và
mạnh miệng cũng lờ đi? Lý do nào để có những người dễ tin đến thế? Ông Phan Huy
Lê có tự coi nhẹ danh dự của mình không khi ông tùy tiện đưa ra câu chuyện “khẩu
thiệt vô bằng” về một hình tượng lịch sử “mang tính phổ biến và thiêng liêng”,
rồi lại với giọng điệu giả nhân giả nghĩa ông đưa ra lời khuyên nên đối sử với
biểu tượng ấy thế nào?! Ông có phụ lòng những người đã ưu ái cho ông được mở
mang sự học và trọng đãi ông, tin cẩn ông, giao cho ông trọng trách làm quan
chánh sử quốc gia?!
Điều
mà ông Phan Huy Lê lấy làm thoả mãn là đã “làm tròn trách nhiệm với cố GS Trần
Huy Liệu”! Nhưng tội nghiệp thầy ông đã không thể nhắm mắt nằm yên dưới mồ bởi
những tư tưởng chính kiến của thầy lưu rành rành trong sách, coi như di huấn
được nhiều người trân trọng thì trò lại xổ toẹt đi, thay vào sự đặt điều tai
tiếng để cho người đời biếm luận: “Như trường hợp giáo sư sử học Phan Huy Lê
mãi mấy năm gần đây mới khai thật (trên tạp chí Xưa Nay) nhân vật Lê Văn Tám
chỉ là do người tiền bối bậc thầy ông là cố giáo sư Trần Huy Liệu “sáng tác” ra
để động viên phong trào kháng chiến… Nghĩ cũng có chỗ đáng thương cảm cho cố
giáo sư Trần Huy Liệu, cho đến phút lâm từ mới “dám” trối trăng lại sự thật,
nhưng như thế thì nên gọi ông là nhà giáo dạy sử yêu nước, nhà cách mạng đáng
tôn kính hơn là nhà sử học, bởi bản chất của sử học, nếu đã có chữ “học” trong
đó rồi thì phải tôn trọng sự thật!” (Trần Văn Chánh – Tạp chí Nghiên cứu và
phát triển số 4 (87) – Thừa Thiên Huế).
Sự
kiện lịch sử chấn động từ Nam
ra Bắc mà thời gian càng lùi xa, những chứng nhân ngày càng vắng bóng thì những
kẻ tim đen dạ tối xuyên tạc càng nhiều và càng ra công bươi móc. Sự việc rõ ra
như thế, nếu như ông thầy sử học họ Phan là người “trung thực, có trách nhiệm
và danh dự công dân” tất phải có lời cải chính công khai minh bạch trên các
phương tiện truyền thông, chứ không để mặc cho dư luận xã hội đồn thổi những
lời xúc phạm anh linh liệt sỹ và người thầy khả kính, làm lớp trẻ không biết
tin ai, gây mất ổn định xã hội trong tình hình đất nước lại đang bị họa ngoại
xâm đe dọa. Bất cần ông Lê đồng lõa hay chỉ là sự hớ hênh thì bọn người cơ hội
đầy rẫy đây kia vẫn lợi dụng việc này để bêu riếu cuộc kháng chiến đầy gian khổ
hy sinh của nhân dân ta đồng thời làm hoen ố danh dự của ông. Vậy mà ông còn
hùng hồn lý sự: “Đối với sử học, tôn trọng sự thật, tìm ra sự thật, xác minh sự
thật là một nguyên tắc cao cả thuộc về phẩm chất và chức năng của nhà sử học.
Mọi biểu tượng hay tượng đài lịch sử chỉ có sức sống bền bỉ trong lịch sử và
trong lòng dân khi được xây dựng trên cơ sở khoa học khách quan, chân thực”!
Vậy ông đã làm gì để tạo lập một nền tảng nhận thức khoa học khách quan về quá
trình hình thành biểu tượng Lê Văn Tám? Sử học là chuyện liên quan tới con
người mà ông đòi hỏi phải có quá khứ khách quan chính xác, thì xin thưa: Chẳng
ai dám mạnh dạn xác minh ngay cả đấng sinh thành ra mình! Như ông Phan Huy Lê
có đích thực là con của ông Phan Huy Tùng với bà Cao thị? Cho dù y học tiến bộ
đến đâu thì nguyên lý “không có gì tuyệt đối” luôn là chân lý của khoa học
khách quan!
Bây
chừ hẳn GS. Ngô Vĩnh Long có thể bình tâm suy nghĩ lại xem những cứ liệu sử học
của người đồng nghiệp tung ra dù chưa được kiểm chứng kỹ càng, liệu đã đủ sức
thuyết phục chưa? Nhân đây người viết xin giới thiệu với bạn đọc một sử liệu
thật 100% trong thời kỳ toàn dân ta chống Mỹ: Giữa năm 1964, Lầu Năm Góc tạo
dựng lên sự kiện vịnh Bắc bộ, lấy cớ thúc ép Quốc hội Mỹ thông qua nghị quyết
cho phép quân đội Mỹ trực tiếp tham chiến ở Việt Nam. Ở miền Bắc thì mở rộng
chiến tranh phá hoại bằng phi pháo và phong tỏa. Ở miền Nam thì biến cuộc
chiến tranh đặc biệt thành chiến tranh cục bộ. Đầu năm 1965, quân Mỹ ùn ùn đổ
vào miền Nam .
Chiến sự trở lên ác liệt và ngân sách chiến tranh đổ vào tăng nhanh cùng với
quân số thương vong. Những người Mỹ yêu chuộng hòa bình công lý phản kháng
quyết liệt, không chịu để con em họ chết bởi một cuộc chiến tranh phi nghĩa.
Chiều ngày 02/11/1965, tiến sỹ thần học Norman Morrison bế con gái nhỏ Emily 18
tháng tuổi đến trước lầu Năm góc tự thiêu để đánh thức công luận. Cụ Hồ lúc đó
có gửi thư chia buồn và mời bà Anne Welsh Morrison sang thăm Việt Nam . Nhà thơ Tố
Hữu làm ngay bài thơ “Emily con ơi” nói thay tâm tư tình cảm của Morrison rất
là xúc động, đại khái như sau:
“Emily,
con đi cùng cha/ Ra bờ sông Pôtômac/ Có Lầu năm góc/ Cha bế con đi tối con về
với mẹ/ Giônxơn, tội ác bay chồng chất/ Cả nhân loại căm hờn/ Mac Namara/ Như
đà điểu rúc đầu trong cát bỏng/ Hãy nhìn ta đứng đây với trái tim vĩ đại/ Của
trăm triệu con người nước Mỹ/ Để đốt sáng đến chân trời một ngọn đèn công lý/
Nhân danh ai?/ Bay mang những B52, những napan, hơi độc đến Việt Nam/ Để ám sát
hòa bình và tự do độc lập/ Để đốt những nhà thương trường học/ Giết những con
người chỉ biết yêu thương/ Giết những trẻ em chỉ biết đến trường/ Giết những
đồng xanh bốn mùa hoa lá/ Và giết cả những dòng sông của thơ ca nhạc họa!/ Nhân
danh ai?/ Bay chôn tuổi thanh xuân của chúng ta trong những quan tài/ Ôi những
người con trai khỏe đẹp/ Có thể biến thiên nhiên thành điện thép/ Cho con người
hạnh phúc hôm nay!/ Ôi Việt Nam sứ sở lạ lùng/ Đến em thơ cũng hóa những anh
hùng/ Những làng phố trở nên những pháo đài ẩn hiện/ Và xin nghe nước Mỹ ta
ơi!/ Tiếng đau thương căm giận đời đời/ Của một con người thế kỷ/ Emily, con
ơi/ Trời sắp tối rồi/ Cha không bế con về được nữa/ Đã đến lúc lòng ta sáng
nhất/ Ta đốt thân ta/ Cho ngọn lửa chói lòa: Sự thật!”.
Lúc
ấy đang ở chiến khu trong rừng sâu, đọc bài thơ mà những người lính giải phóng
chúng tôi không cầm được nước mắt vì thương bé Emily quá!
34
năm sau, khi quan hệ Việt-Mỹ đã bình thường hóa, mẹ con bà mới có chuyến thăm
Việt Nam .
Trong buổi gặp gỡ thân tình, nhà thơ nói: “Sự hy sinh của Norman Morrison không
phải là không có ý nghĩa. Chúng tôi kính trọng Morrison như kính trọng những
anh hùng liệt sỹ của chúng tôi”. Thật vậy, chúng tôi nghĩ giá như ở Việt Nam có
những con đường, trường học mang tên Morrison thì còn ý nghĩa bao nhiêu lần hơn
những cái tên Alexandre de Rhode, hoặc Phan Thanh Giản hay là Trương Vĩnh Ký.
Bà
Anne W. Morrison nói: “Nhiều năm qua tôi đã đọc bài thơ nhiều lần và cứ mỗi lần
đọc, một cái gì đó lại trào dâng trong cổ”. Tuy nhiên khi Emily 15 tuổi mới
được biết bài thơ đó. Trong dịp này, cô đọc tặng lại bài thơ “Gửi ông Tố Hữu”,
tóm lược như sau:
“Ở
Việt Nam/ Trong tro tàn và máu/ Sau mấy ngày cha tôi đi xa/ Có một bài thơ ông
đã viết/ Ông đã tạo nên biểu tượng của hy vọng và tương lai/ Emily!/ Ông đã
giúp họ hiểu cha tôi/ Và yêu tôi/ Ở Mỹ tôi như đứa trẻ lạ thường/ Với một quá
khứ không ai biết/ Ở Mỹ nhiều người không hề thích/ Kể về tuổi thơ mình/ Nhất
là về người cha đã chết/ Đến 15 tuổi tôi mới biết/ Có một bài thơ ông đã viết/
Ngồi trên thảm cỏ non xanh/ Dưới bóng cây thông, giữa không gian yên bình/ Tôi
mới đọc bài thơ, từng dòng từng chữ/ Và òa khóc không thể nào kìm giữ/ Nước mắt
cứ trào ra từ nơi trái tim mình/ Bởi tôi hiểu/ Mình không phải lạ thường kỳ
quặc/ Mà là con gái một con NGƯỜI/ Được yêu thương được giữ lại cho đời/ Được
trân trọng và được cùng chia sẻ/ Cảm ơn ông đã viết một bài thơ/ Về tình yêu mà
cha tôi để lại/ Từ đất nước ông xa xôi ngọt lành hoa trái/ Ông đem tình yêu gửi
vào trái tim tôi” (Tuần báo Văn nghệ TPHCM số 378 ngày Thứ năm 5/11/2015).
Ở
một nước được coi là thiên đường của tự do và công lý mà sao những tấm gương hy
sinh cao cả vì công lý lại không được trân trọng đề cao, thậm chí không được
người ta thích? Để đời mau lãng quên đi một con NGƯỜI! Giá như giới cầm quyền
Mỹ lúc đó sớm tỉnh thức thì sẽ không có vụ thảm sát ở Mỹ Lai làm ô danh nước
Mỹ, cũng không có sự thầy bỏ trò tháo chạy đã thành bia miệng để đời và không
đến nỗi hơn 58 ngàn con gái con trai bỏ mạng ở một xứ sở nhiệt đới xa xôi, hơn
300 ngàn người tàn phế, ngốn hơn 5.000 tỷ USD tiền thuế của dân, lại thêm gánh
nặng “Hội chứng Việt Nam” hủy hoại bao nhiêu thế hệ thanh niên Mỹ! Tất nhiên
phía Việt Nam phải chịu tổn thất hơn rất nhiều lần. Nhưng đó là cái giá phải
trả để có được hòa bình, thống nhất và độc lập dù không ai muốn thế. Sao có thể
biết được thời ba lần đánh giặc Nguyên-Mông, thời đánh giặc Minh, thời đánh
giặc Thanh chúng ta chịu tổn thất bao nhiêu? Với giặc Nhật, chỉ có 5 năm trong
khi chiến sự xảy ra không đáng kể mà dân ta chết hơn hai triệu! “Bao giờ bánh
đúc có xương/ Bao giờ giặc nước nó thương dân mình!”. Phải chăng đó là định
mệnh của người Việt Nam
ta?!
Từ
chuyện này cho ta suy nghĩ: Thời chống Mỹ, quân kháng chiến Việt Nam dù có vài
chục máy bay phản lực mà cổ lỗ, vài trăm quả tên lửa cũ kỹ mà quá “date”, những
khẩu pháo tầm trung bắn từng phát một (!) thì cũng chỉ là những đội du kích lẻ
tẻ, ăn nhằm gì trước đội quân chính quy thiện chiến Hoa Kỳ hùng mạnh nhất thế
giới với đủ loại vũ khí tối tân hiện đại. Nhưng không muốn con em mình bỏ mạng
vì dính vào một cuộc chiến tranh phi nghĩa, sát hại những người lương thiện ở
bên kia đại dương chẳng thể làm hại đến mình, mà không ít người Mỹ quyết đứng
lên bảo vệ chân lý, thậm chí không chỉ một người lấy thân mình làm đuốc sống
thắp sáng lên ngọn lửa lương tri. Huống chi một dân tộc có truyền thống giữ
nước giữ nhà, đang bị giặc ngoại xâm tàn phá quê hương, diệt chủng giống nòi,
thì cũng một ý như hội nghị Diên Hồng: “Trước nhục nước nên hòa hay nên chiến”?
Câu trả lời vẫn chỉ một con đường: “Hy sinh quyết chiến”! Giặc đến nhà đàn bà
cũng đánh. Người lớn có cách đánh của người lớn. Trẻ con có cách đánh của trẻ
con. Lịch sử hàng nghìn năm giữ nước đã chứng minh điều đó. Ngọn lửa Lê Văn Tám
chỉ là một trong hằng hà những sự hy sinh muôn hình vạn trạng. Thế mới có ngày
thống nhất giang sơn, giành độc lập cho nước và quyền tự chủ cho dân. Đó là nghĩa
đạo, là nền tảng của lòng yêu nước nồng nàn tiềm ẩn trong mỗi con người Việt
Nam, để: “Mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng thì tinh thần ấy lại sôi nổi, nó kết
thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó
khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và lũ cướp nước” (Hồ Chí Minh). Bao nhiêu
cuộc xâm lược đều bị “đẩy lùi từng bước, đánh đổ từng bộ phận, tiến tới đánh đổ
hoàn toàn ý chí xâm lược” của những đội quân mạnh nhất mọi thời đại. Những kẻ ỷ
vào sức mạnh đã không hiểu được chiều sâu văn hóa Việt Nam . Đó là bài
học lịch sử rõ ràng mà sao những kẻ xâm lăng không học được? Ăn có nhai, nói có
nghĩ, lẽ nào chỉ từ lời nói bốc đồng của một sử gia thiếu trách nhiệm mà người
ta dễ dàng phủ nhận một sự kiện chỉ nhằm tôn vinh lòng yêu nước từng được khẳng
định suốt mấy mươi năm, mà thành quả rõ ràng mọi người đều được hưởng?! Dân ta
có lòng yêu nước nồng nàn – Đó không phải là điều nói láo! Thờ ơ với nước với
dân trước cơn tai họa mới là điều trái với luân lý Việt Nam !
Quý
vị quá rành lịch sử phương Tây. Tại sao người con gái 17 tuổi Jeanne d’Arc được
thừa nhận là vị nữ tướng vĩ đại nhất trong lịch sử nước Pháp, mặc dù quanh bà
có những chuyện đồn thổi mơ hồ huyễn hoặc? Nhưng sự dũng cảm và lòng yêu nước
của người con gái phi thường ấy đã xốc lại dũng khí cho một đạo quân đang hồi
rệu rã là có thật, mới được các tướng lĩnh trao quyền cầm quân, binh sỹ tin
tưởng, đồng lòng xông lên quyết chiến, đuổi quân xâm lược chạy dài, liên tiếp
giành nhiều thắng lợi. Và khi vị nữ tướng anh hùng bị phản bội, hy sinh thì khí
thế của đội quân chiến đấu vì tổ quốc không hề nao núng, tiếp tục chiến đấu tới
thắng lợi cuối cùng, kết thúc cuộc chiến 100 năm giữa Anh và Pháp. Tuy nhiên, bởi
sự đố kỵ nhỏ nhen cùng những lời cáo buộc hèn mạt của những thế lực đen tối
đương thời, mà vị nữ anh hùng từng bị coi là dị giáo, bị phủ định mọi công tích
và bị thiêu trên giàn hỏa! Mãi 500 năm sau bà mới được hậu thế thừa nhận công
lao, được giáo hội phong Thánh và được nhân dân dựng tượng tôn vinh như niềm tự
hào của nước Pháp.
Người
viết vốn tính tò mò, hay tìm đến các thông tin hải ngoại. Qua những PHỐ BOLSA,
VIET WEEKY, KBCHN… được biết mấy ông bà trí thức kể cả những vị cao niên từng
là trùm sỏ cờ vàng, lừng danh chống cộng một thời, mà giờ lại khuyên thính giả
hãy đừng nghe mấy cái đài BBC, RFA, VOA mà bị lỡm! Khó tin các vị ấy quay lưng
lại với lý tưởng của mình, mà các vị quá đủ thời gian chiêm nghiệm thế giới
chung quanh đủ điều hay dở, cùng với nhìn ra hiện tình đất nước hôm nay. Còn
nhiều điều bất an nhưng không phải toàn là những điều xấu xa như vẫn bị nghe để
oán hận cứ trùng trùng. Cái nghĩa “đồng bào”, cái “tình quê” của người Việt ta
nặng lắm. Những ngày kháng chiến gian lao vất vả, sống đó mà chết đó! Một lúc
chợt nghe tin tức từ đài BBC qua giọng đọc dửng dưng của ông Đỗ Văn, ông Xuân
Kỳ mà nghĩ tương lai mù mịt quá và có lúc lòng thấy nản! Nhiều người còn nhớ
sau khi ký Hiệp định Paris 1973, một trong hai ông có phỏng vấn phái đoàn Việt Nam
DCCH điều gì đó, ông Xuân Thủy là nhà ngoại giao bặt thiệp và thâm nho, trả lời
một câu ngắn gọn: “Ông có phải là người Việt Nam không?!”. Ăn cơm nhà Chúa phải
múa tối ngày là thế. Được biết sau ngày đất nước thống nhất, các ông về thăm
quê hương trong cảnh thanh bình, gặp gỡ bà con họ tộc vui vẻ thân tình. Ấy là
hồng phúc tổ tiên ta phù trợ cho con cháu muôn đời. Tuy nhiên trong thế giới
phẳng ngày nay, chẳng nên cực đoan đến nỗi chỉ biết nghe từ một phía. Đã làm
tuyên truyền thì dù là ai, ở đâu cũng phô ra những điều đẹp đẽ. Dù sao cũng chỉ
dối được vài người trong một thời gian, chứ lâu dài không thể dối được nhiều
người. Những điều xấu xa và cả những điều tốt đẹp cũng không thể che đậy mãi.
Sự thật là cái hậu hồi như sau vụ lúa.
Luật
sư Nguyễn Hữu Thọ, một trí thức miền Nam tiêu biểu trọn đời cống hiến hy sinh
cho sự nghiệp hòa bình, thống nhất, độc lập của tổ quốc từng nói: “Người ta ai
cũng có một gia đình để yêu thương, một quê hương để luyến nhớ, một tổ quốc để
phụng thờ, một dân tộc để phục vụ và một niềm tin hướng thiện. Người trí thức
càng thấm sâu hơn điều ấy”. Những trí thức thế hệ ông như LS Thái Văn Lung, KS
Nguyễn Ngọc Nhựt, NS Lưu Hữu Phước, KS Lâm Văn Tết, LS Trịnh Đình Thảo, KTS
Huỳnh Tấn Phát, KS Phạm Ngọc Thảo, LS Nguyễn Thị Thanh Vân (Bà Ngô Bá
Thành), BS Phùng Văn Cung… đã cùng lớp con cháu đồng thời như Lê Văn Tám, Võ
Thị Sáu, Trần Văn Ơn… góp phần xứng đáng làm nên một “Miền Nam thành đồng Tổ
quốc”.
Nói
chuyện lịch sử không thể dễ dãi, vô căn, vô tâm và không thể quên lời dạy của
người xưa: “Sự kiện lịch sử, thời gian càng xa càng nhiều cái khó tin. Người
đời thường ưa cái lạ, nghe được một điều truyền lại thì muốn viết cho lớn
chuyện lên, thế là gạt bỏ cái đồng, truy tìm cái dị, khiên cưỡng phụ họa, sống
sượng thêm bớt. Ghi sử quý ở chỗ đáng tin. Người viết sử phải chịu trách nhiệm
với cả đất nước, nếu như lại tùy tiện viết sai thì thật là nguy hại”! (Lưu Hiệp
– Văn tâm bửu giám).
Tuần
báo Văn nghệ TP Hồ Chí Minh
Số
384 Thứ năm ngày 17 tháng 12 năm 2015.