DẪN CHỨNG SỬ HỌC
CẦN ĐƯỢC XEM CẨN TRỌNG
CẦN ĐƯỢC XEM CẨN TRỌNG
VÀ GIẢI TRÌNH TRUNG THỰC.
Nguyễn Văn Thịnh
*****************
Trong bài Mấy tư
liệu về Lê Văn Tám (Tạp chí Xưa
& Nay, số 490 tháng 12/2017), ông Nguyễn Huy trích dẫn bức thư của cố
GS Trần Huy Liệu gửi ông Trần Quang Huy – Trưởng Ban Khoa Giáo TƯ lúc đó:
“Hà Nội ngày
14/4/1967
Kính gửi anh Huy
… Chuyện em Lê
Văn Tám, tôi cho đến nay vẫn không tin có việc này, vì nó vô lý quá.
Ai cũng biết kho thuốc đạn của giặc bố
trí cẩn mật và khoa học thế nào, vậy thì làm sao một em bé có thể xông thẳng vào đốt cháy một cách dễ dàng và đã xông thẳng vào được thì việc gì phải
tự tẩm xăng vào mình thì mới đốt cháy được. Câu chuyện này đồn lên chính xác vào hồi tôi làm bộ trưởng Bộ Tuyên
truyền, nhưng hồi ấy là đốt kho dầu
xăng ở Khánh Hội, chớ không nói là đốt kho thuốc đạn ở giữa thành phố Sài Gòn.
Tôi còn nhớ một bài báo của địch lúc đó đã
chế riễu chuyện này và liên hệ với
đôi chân khập khiễng của tôi và cái chân thọt của anh Hạ Bá Cang (Hoàng Quốc
Việt). Thế rồi chuyện đó êm đi, trên
báo chí của ta cũng không hề chính thức một lần nào nói về chuyện đó và trong câu chuyện đồn thổi cũng chỉ nói có
một thiếu nhi tẩm dầu xăng, chớ không hề nói tên là Lê Văn Tám. Mãi đến năm gần đây thì kịch Lê Văn Tám mới
xuất hiện như một sự thật đã xảy ra. Tôi
nghĩ nếu nó chỉ thuộc loại truyền
thuyết hay giai thoại thì ta cũng không cần thiết phải cải chính nhưng nếu dùng làm sử liệu, viết vào lịch sử
của Đảng thì rất không nên”.
Rất cảm ơn ông Nguyễn Huy vì tôi chỉ là người yêu sử,
tìm hiểu lịch sử của dân tộc mình và của người ta để biết có gì hay dở, nên
không có điều kiện tiếp cận kho tàng lưu trữ chuyên ngành.
Dù rằng tác giả giới thiệu bản chụp bức thư nói là của
GSTHL, lưu tại Viện Sử học, hộp 29, tếp 1032, nhưng không phải là di bút của
nhà sử học, mà chỉ là bản sao viết tay của người thư ký tên Lê Vũ Hiển. Đúng là
thời đó chưa có máy photocopy nhưng máy đánh chữ thì đã có cả thế kỷ rồi và “gõ”
một lần cũng cho ra năm ba bản. Tuy bản sao có đóng dấu mộc “Viện Sử Học” nhưng
lại thiếu cái cốt yếu là chữ ký xác
thực của người thủ bút (là ông THL)! Thực ra tài liệu ấy chưa có giá
trị để tham khảo thì sao có giá trị pháp lý như một chứng nhân. Nhưng là người nhà,
có thể châm chước vì quá trình ta đi lên từ không đến có thì không thiếu gì sự
khiếm khuyết nếu cứ bới lông tìm vết.
Tuy nhiên một đoạn trích chưa tới 250 từ cũng đủ làm
rõ ra mấy điều chính yếu mà tôi trình bày ra đây để bạn đọc suy xét:
1/ GSTHL viết: “Chuyện em Lê Văn Tám, tôi
cho
đến nay vẫn không tin có việc này, vì nó vô lý quá… Câu chuyện này đồn lên
chính xác vào hồi tôi làm bộ trưởng Bộ Tuyên truyền… Tôi còn nhớ
một
bài báo của địch lúc đó đã chế riễu chuyện này và
liên hệ với đôi chân khập khiễng của tôi và cái chân thọt của anh Hạ Bá Cang
(Hoàng Quốc Việt)”. Rõ ràng là câu chuyện trên ông THL chỉ biết qua các
phương tiện thông tin báo, đài và dư luận chớ không do ông tự viết ra! Ông đã nói: “Ai cũng biết kho thuốc đạn của
giặc bố trí cẩn mật và khoa học thế nào, vậy thì làm sao một
em bé có thể xông thẳng vào đốt cháy một cách dễ dàng và đã
xông thẳng vào được thì việc gì phải tự tẩm xăng vào mình thì mới đốt cháy được”,
thì làm sao một sỹ phu, nhà cách mạng, nhà văn, nhà báo lão làng có thể
cầm bút viết ra những dòng chữ ngây ngô như vậy?! Ông Trần Quang Huy
(1922-1995) là đồng chí vong niên với ông Trần Huy Liệu (1900-1969) nhưng cũng
là nhà cách mạng kỳ cựu, lúc đó lại là cán bộ quản lý cấp trên, thì sao khi trao đổi về một vấn đề rất nghiêm túc liên
quan tới lịch sử của Đảng, nhà sử học không nói thẳng ra “chuyện đó do
tôi (THL) sáng tác ra để phục vụ yêu cầu cách mạng lúc đó”, trong khi ông
dễ dãi trải lòng ra nhiều lần với những học trò vào hàng con cháu câu chuyện mà
ông thấy rằng “không cần thiết phải cải chính”?!
2/ Điều nhà sử học nói “nó vô lý quá” thì ai cũng
thấy. Đến nay còn có những chứng nhân tại chỗ xác định ở khu vực Thị Nghè lúc
đó có kho
xăng (thực ra chỉ là
trạm trung chuyển không lớn lắm của
hãng dầu Shell) bảo vệ sơ sài, gần
chợ Thị Nghè và kho
đạn Pyrotechnicque
kế bên Sở thú. Hai
điểm này cách nhau con rạch chừng vài trăm mét (Báo Cựu chiến binh TPHCM số 269) bởi về nguyên tắc kho xăng và
kho đạn không được để cùng một chỗ. Trong không khí căm thù
sục sôi những ngày đầu cả Nam bộ kháng chiến thì “có nhiều sự kiện đốt cháy các kho xăng dầu, thuốc đạn của địch tại Sài
Gòn”. Vụ cháy kho xăng xảy ra ngày 17/10/1945 sau ngày Nam bộ nổ súng
kháng chiến 23/9 chưa đầy một tháng, lại do một một thiếu niên tên TÁM, người địa
phương khu Đakao gần đó thực hiện. Kho xăng cháy trong đêm nhưng rất xúc động
lòng người, gây tiếng vang lớn lắm (Tuần
báo Văn nghệ TPHCM số 79, 297, 383). Vụ
nổ kho đạn xảy ra sau đó chừng 6 tháng (ngày
8/4/1946). Đó là kho dự trữ cho
cả chiến trường nam Đông Dương nên đạn nổ rần rần, tóe lửa rực trời suốt mấy
ngày đêm, địch bị tổn thất rất lớn, bà con ta vô cùng phấn chấn.
Tuy nhiên đó là một địa
điểm trọng yếu, lại gần Tổng hành dinh tướng
Le Clerc – chỉ huy quân viễn chinh Pháp ở Đông Dương, nên được canh phòng rất cẩn mật. Tất nhiên muốn đánh
kho đạn này phải
có sự điều nghiên rất kỹ và hợp đồng tác
chiến chặt chẽ,
vậy mà ít ra cũng có ba chiến sỹ hy sinh (Hồi
ký Những năm tháng không thể nào quên của Đại tướng Võ Nguyên Giáp do Hữu Mai chấp bút,
Hồi ký của nhà cách mạng Dương Quang Đông, Hồi ký của ký giả Nam Đình tức Nguyễn
Kỳ Nam,
khá trùng
hợp với nhau).
3/ Ông THL viết: “Trong câu chuyện đồn thổi cũng chỉ
nói có một thiếu nhi tẩm dầu xăng, chớ không hề nói tên là Lê Văn Tám.
Mãi
đến năm gần đây thì kịch Lê Văn Tám mới xuất hiện”. Nhà sử học có nói cái tên
Lê Văn Tám là do ông đặt ra đâu? Ông Trần vào Sài Gòn từ năm 1924, làm
báo và làm cách mạng. Năm 1935, ở tù Côn Đảo ra, bị chính quyền thực dân trục
xuất về Bắc kỳ, cho tới lúc chết ông chưa có dịp trở lại miền Nam. Trong khi cuộc
kháng chiến chống Pháp mở rộng ra cả nước, tiếp sau là cuộc kháng chiến chống
Mỹ, mỗi ngày, mỗi thời kỳ xảy ra bao nhiêu là sự kiện lớn nhỏ ở khắp nơi trên
cả nước, tất nhiên chỉ một số việc và người điển hình tiêu biểu được nêu gương rộng
rãi trên hệ thống truyền thông, chớ sao có thể nói hoài một chuyện? Thời đầu ta
chống Pháp bằng tầm vông, dao quắm, phảng, giáo, mác thậm chí là tay không giết
giặc. Đến thời chống Mỹ, ta đã trưởng thành, dùng đặc công gài thủy lôi, trái
nổ kết hợp với tên lửa cải tiến bắn từ xa, đánh đắm tàu chở hàng vạn tấn dầu, cho
nổ cả trăm ngàn tấn đạn ở kho Thành Tuy Hạ và đánh cháy hàng trăm triệu lít
xăng ở kho chứa Nhà Bè rộng mênh mông (Đặc công Rừng Sác – Lê Bá Ước), đâu cần
châm mồi xăng làm ngọn đuốc. “Chuyện đó êm đi” chỉ đôi lần nhắc tới là vì thế.
Năm 1954, khi bộ đội Cụ Hồ về giải phóng Thủ đô, người
viết bài này học lớp đầu trường PTTH Nguyễn Trãi lúc đó ở phố Hàng Bài. Khoảng
năm 1955 – 1956, trường diễn vở kịch “Lửa cháy lên rồi”, người thủ vai em
Tám là bạn Trịnh Xuân Chính, lúc đó học lớp Đệ thất (lớp 6 ngày nay), lớn lên
là diễn viên Đoàn kịch nói TƯ, rồi được sang Ba Lan học kỹ thuật hóa trang, sau
1975 vào làm việc ở TPHCM, hẳn giới nghệ sỹ sân khấu nhiều người quen biết. Cùng
thời gian ấy, vở kịch được diễn ở Hải Phòng, sau lên Hà Nội, người
xem náo nức. Soạn giả, nhà thơ Phan Vũ kể: “Tôi người Hải Phòng, Vệ quốc
quân Nam tiến. Những năm ở chiến trường tây
Nam bộ tôi có nghe chuyện một thiếu niên Sài Gòn tên Tám, dũng cảm xông vào đốt
cháy một kho xăng. Chuyện chỉ có thế
nhưng cái chết của em cứ lởn vởn trong tâm não tôi. Năm 1954, tập kết ra Bắc,
niềm thương nỗi nhớ miền Nam và hình ảnh em bé đốt kho xăng sống dậy, tôi dồn
tâm sức viết vở kịch “Lửa cháy lên
rồi”. Trước
tiên, vở kịch đem diễn ở các trường học sinh miền Nam, thầy
trò hưởng ứng sôi động lắm, sau lan rộng ra các tỉnh, không ngờ được
thành công lớn, tôi cảm động lắm. Không nhớ tại sao tôi lấy họ Lê đặt cho em. Thật ra cái tên không quan trọng mà sự kiện mới
là nguồn cảm hứng cho người viết”. Cũng
từ đó chuyện em bé LÊ VĂN TÁM đốt kho xăng lan truyền khắp nước.
Như vậy, cụm từ “NGỌN
ĐUỐC SỐNG LÊ VĂN TÁM” gồm có hai phần: “LÊ
VĂN TÁM” là danh từ riêng, trong đó TÁM là
tên thật (Chứng nhân cụ thể là các ông Trần Thắng Minh, Hồ Thanh Điền, Võ Thanh
Khiết – báo đã dẫn), gắn vào họ LÊ VĂN chỉ là sự ngẫu nhiên của người nghệ sỹ; và
cụm từ biểu tượng “NGỌN ĐUỐC SỐNG” có thể
do nhà sử học THL đặt ra bởi nó hợp
với ngữ cảnh mà ông Phan Huy Lê đã trần tình: “Trên cơ sở sự kiện có thật và cả dư luận về
hình ảnh người chiến sỹ tẩm xăng thời đó, Gs Trần Huy Liệu tạo dựng nên biểu tượng
“ngọn đuốc sống” gắn với tên tuổi thiếu niên Lê Văn Tám nhằm động viên tinh thần
chiến đấu của quân dân trong những năm đánh Mỹ”; hoặc do một
cán bộ tuyên huấn nào đó sáng tác ra. Muốn xác minh điều này không khó nếu để công sưu tra
thời điểm cụm từ này xuất hiện trên các văn bản truyền thông chính thống của
nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa.
4/ Cuộc kháng chiến trường kỳ chống
xâm lược phương tây của dân tộc ta được cả nhân loại coi như một cuộc “chiến
tranh thần thánh”. Truyền thống yêu nước quật cường là gốc rễ nuôi dưỡng
sức mạnh thần thánh ấy. Đảng Cộng sản Việt Nam phát động, bền bỉ đứng mũi chịu
sào suốt cuộc đấu tranh, tổ chức đoàn kết toàn dân, nhân lên và phát huy tinh
thần xả thân vì nghĩa lớn. Lịch sử Đảng
ghi nhận những sự kiện và những con người liên quan đến sự khai sinh và phát
triển của Đảng. Còn biết bao con người trong giây phút làm nên lịch sử và cái
chết của họ hóa thành bất tử: Lý Tự Trọng, Kym Đồng, Lê Văn Tám, Võ Thị Sáu, Nguyễn
Viết Xuân, Nguyễn Thái Bình… dù là danh thật hay không thật, kể cả những người
nằm xuống âm thầm lặng lẽ chỉ để lại truyền thuyết thì tên tuổi, chiến tích anh
hùng của họ đều đáng được tôn vinh tại nơi họ ghi dấu ấn.
Là nhà cách mạng từng trải, trong
bối cảnh xã hội lúc bấy giờ, ông THL đặt vấn đề với tổ chức: “không cần thiết phải cải chính
nhưng
nếu dùng làm sử liệu, viết vào lịch sử của Đảng thì rất không nên”,
là rất tế nhị, chí lý, chí tình và rất có trách nhiệm trên
cương vị một nhà sử học chân chính.
Cuối bài, ông Nguyễn Huy viết: “Vụ đốt kho đạn là có thật. Thiếu
niên đốt kho đạn là có thật. Nhưng người mang tên Lê Văn Tám là
không có thật, đó là tên do GSTHL đặt ra (?)… Chỉ có biểu tượng Lê Văn Tám,
không có anh hùng mang tên Lê Văn Tám (!)”.
Xin thưa, người đọc sử nên tin vào chứng cứ lịch sử lưu
trên văn bản cụ thể, hay tin vào những lời nói hoắng “khẩu thiệt vô bằng” không
thuyết phục được ai?
Nhà thơ Phan Vũ, soạn giả vở kịch “Lửa
cháy lên rồi” đưa tên tuổi LÊ VĂN TÁM khắc dấu son vào lòng bao thế hệ,
kể: “Năm 1982, xưởng phim Nguyễn
Đình Chiểu TPHCM dựng bộ phim “Ngọn
lửa thành đồng” dựa trên kịch bản của tôi do anh Lê Mộng Hoàng đạo
diễn. Tổ chức Đoàn thanh niên có bàn với tôi lập hồ sơ truy phong anh hùng cho
Lê Văn Tám nhưng tôi không biết gì hơn những điều tôi đã viết về con người ấy”. Đồng
đội của dũng sỹ đã hết lòng tìm tung tích nhưng bản “báo công” của anh vẫn còn
là tờ giấy trắng và đã có ai dám nhận vơ
đâu?! Cho đến nay trong danh sách anh hùng thời kỳ kháng chiến 1945 – 1975 không
có tên LÊ VĂN TÁM, dù hành động ấy rất anh hùng. GS.Trần Văn Giàu – nhà cách mạng, sử gia, người anh
hùng chính danh và cũng là chứng nhân nhiều sự kiện quan trọng ở Nam Bộ trong
thời kỳ đầu kháng chiến chống Pháp, nhưng vào thời điểm xảy ra sự kiện thì ông
được triệu ra Hà Nội. Thực tế thì đánh một trạm xăng, một đồn bót… là nhiệm của
đơn vị trực tiếp cụ thể, thậm chí có thể là tự phát, đúng như lời ông nói: “…Không có, tôi không có chỉ huy… Nhưng mà
theo tôi thì trận đánh đó là có thực phải không?... Tôi nghĩ rằng ta đánh giá
không hết lòng yêu nước nồng nàn, dám làm việc lớn của thanh niên và cán bộ lúc
bấy giờ. Cái chuyện đó không thể nói là không có. Nhưng nó có ở đâu, có như thế
nào mới là cái khó cắt nghĩa. Khó cắt nghĩa lắm. Người viết sử phải ghi nhận
lòng yêu nước nồng nàn ở trong lòng người Việt Nam, mà có khi không biết là ai
làm. Khi gặp được cơ hội, làm được việc gì, gặp cơ hội đánh được bọn thực dân
xâm lăng thì không bao giờ từ chối, không việc gì không dám làm… Không có Lê
Văn Tám làm chuyện đó thì có người khác làm chuyện đó”. Đòi hỏi phải
“tìm ra sự thật, xác minh sự
thật là một nguyên tắc cao cả thuộc về phẩm chất và chức năng của nhà sử học” (PHL), thì
cũng cần hiểu rằng cuộc chiến
tranh vệ quốc của dân tộc ta là một cuộc chiến tranh toàn dân, đâu cũng là chiến
trường, mỗi người dân là một chiến sỹ, tay không cũng thành vũ khí. Ngay giữa
thành phố Sài Gòn, sớm mai, một tên đại tá vào tiệm hớt tóc. Lựa lúc vắng người,
kẻ xâm lược nhắm mắt mơ màng, tiện con dao hành nghề, anh thợ cạo xiến ngang cổ
thằng giặc rồi biến đi luôn! Một buổi đầu hôm, người ta tình cờ phát hiện tên
Việt gian chỉ điểm chết gục ở góc đường với một bóng hồng thoáng qua! Ở vùng
quê nọ, một tên sếp bốt ác như quỷ sứ bỗng lôi ở đâu một cô gái xinh xẻo dịu
dàng về làm vợ; trước những con mắt giận dữ khinh thị của người bản xứ cặp đôi
coi họ chẳng phải giống người. Rồi một đêm phát ra tiếng nổ long trời, sáng ra
người qua nghe vọng ra vài tiếng kêu rên thảm thiết từ khu đồn đổ nát tan
hoang; chẳng biết phận hồng nhan phiêu dạt nơi nào! Giới chức đương quyền bó
tay đã đành mà “phía bên kia” cũng không biết ai làm chuyện đó, tin tức trên các
phương tiện truyền thông đều phỏng đoán khoa trương. Những chuyện như thế, nhà
sử học ghi chép thế nào? Vô vàn chuyện như thần như thánh ấy xảy ra không ít ở
khắp nơi trên đất nước này, khiến quân giặc ăn không ngon, ngủ không yên, phát
điên lên và nhận ra Việt Nam không là chốn dung thân của quân xâm lược.
Dẫn chứng sử học cần được xem xét
cẩn trọng và giải trình trung thực. Giấy trắng mực đen rành rành mà người ta vẫn làm xiên
xẹo đi huống chi lịch sử vốn không thiếu điều mơ hồ rối rắm. Dù sao thì ngọn
lửa của anh hùng mang biểu danh LÊ VĂN TÁM đã thành bất tử, là “biểu tượng thiêng liêng”
của tuổi trẻ yêu nước Việt Nam. Sự thật lịch sử được bảo vệ. Và chuyện này chấm dứt được
rồi.
Chí sỹ Lương Văn Can để lại lời nhắn nhủ cho đời: “Bảo
quốc túy – Tuyết quốc sỷ”. Rửa sạch nỗi nhục mất nước, thế hệ hôm nay đang
được hưởng. Giữ gìn cái tinh túy là bản sắc dân tộc, là hồn của giống nòi, điều
tiên quyết là đất nước phải thanh bình, lòng người ổn định, nhân dân bốn cõi đồng
tâm hiệp lực thì mới mong có được một đất nước phát triển, văn minh, tiến bộ bằng
người.
Thành
phố Hồ Chí Minh ngày 25 tháng 01 năm 2018.