ĐÔNG LA
KHOA HỌC VÀ ĐẠO PHẬT
Ở
nước ta hiện tại vẫn có những nhà khoa học phủ nhận những hiện tượng tâm linh.
Ông GS Nguyễn Lân Dũng từng nói trên tivi: “Chết là hết”; Ông Khải “ô
zôn”: "cái gọi là ngoại cảm thì riêng tôi, tôi không bao giờ tin,
nó chỉ là vớ vẩn mà thôi"; ông Bằng “tia đất” thì cho ngoại cảm là “lừa
đảo”; còn ngoại cảm theo ông sư Thích Thanh Duệ, Ủy viên Thường trực Hội đồng
Trị sự GHPGVN, Viện trưởng Phân Viện Nghiên cứu Phật học Việt
Nam, thì những người có khả năng ngoại cảm không phải theo đạo Phật
nhưng khi hành nghề họ cảm thấy có liên quan nhiều đến đạo Phật nên họ “muốn
kéo vào để gây thanh thế”; “Sau 49 ngày, phần hồn ấy sẽ được quyết định
là đầu thai vào nơi này hay nơi khác. Khi thần thức của con người đã chuyển tiếp
rồi thì nó không thể trở lại nói chuyện được với các nhà ngoại cảm nữa”.
Có
tình trạng như vậy bởi giải thích thế giới tâm linh theo khoa học là không thể.
GS
Vật lý Thiên văn Trịnh Xuân Thuận, một nhà khoa học nổi tiếng thế giới, cũng là
một Phật tử. Tiếc rằng, theo tôi những ý của ông về Đạo Phật cũng chưa chuẩn.
Ông
viết: “Phật giáo đưa ra quan điểm rằng vật thể hiện hữu … tuy nhiên hiện hữu
này là thuần túy duyên khởi. Đây là cái mà Đức Phật gọi là Trung Đạo”.
Về
khái niệm Trung đạo, Đức Phật khi nghĩ về người lên dây đàn, căng
quá sẽ đứt, chùng quá không thành tiếng, chỉ vừa phải mới cho ra tiếng đàn tuyệt
diệu, ngài đã ngộ ra con đường tu luyện đúng đắn là Trung đạo. Cũng
như ngài đã bỏ con đường cực đoan mà ngài từng tu luyện theo phép khắc khổ. Trung
đạo chính là nguyên lý cho mọi sự thành tựu nhưng Trung đạo không
phải là Duyên khởi.
Theo
Phật Thích-ca, Nguyên lý Duyên khởi gồm có: Vô minh sinh Hành; Hành sinh Thức; Thức sinh Danh
sắc; Danh sắc sinh Lục căn; Lục căn sinh
Xúc; Xúc sinh Thụ; Thụ sinh Ái; Ái sinh Thủ.
GS
Trịnh Xuân Thuận còn so sánh khoa học với Duyên khởi:
“Một
ý niệm gây ấn tượng tương tự như duyên khởi của Phật giáo đó là khái niệm về
tính “bất khả phân” hay “phi-cục-bộ” trong Cơ học lượng tử được khám phá qua một
cuộc thí nghiệm tưởng tượng nổi tiếng do Einstein, Podolsky và Rosen (EPR) đưa
ra vào năm 1935
Với
hai cái photons tương tác này, ý niệm về “nơi này” và “chỗ kia” trở thành vô
nghĩa bởi vì “nơi này” cũng chính là “chỗ kia”. Đó là những gì mà nhà vật lý gọi
là “tính bất-khả-phân” hay “phi-cục-bộ” của không gian. Điều này cũng tương tự
với ý niệm duyên sanh, duyên khởi của thế giới hiện tượng trong Phật giáo”.
Trước
hết xin nói rõ thêm tí về vật lý, thí nghiệm EPR của nhóm Einstein nói trên dựa
vào chính lý thuyết của Cơ học Lượng tử nhằm diễn tả câu chất vấn: “Liệu
sự mô tả thực tại vật lý bằng CHLT có thể xem là đầy đủ hay không?” (Can QM
Description of Physical Reality Be Considered Complete?) Theo lý thuyết, một hạt
photon có thể tách thành hai hạt chuyển động ngược chiều nhau, nếu xác định một
đại lượng (như vận tốc chẳng hạn) ở hạt này thì cũng sẽ đồng
thời xác định được vận tốc của hạt kia. Vì cũng theo lý thuyết,
hai hạt có tính vướng víu (entangled) với nhau
mà Einstein đã gọi là một tác động ma quái ở khoảng cách (spooky
action at a distance). Đồng thời với phép đo vận tốc, ta cũng xác định động
lượng của hạt kia cũng sẽ biết được động lượng của hạt
này. Như vậy, ta đồng thời xác định được cả vận tốc và động lượng của
một hạt, một điều làm sụp đổ Nguyên lý Bất định, trái tim của Cơ học
Lượng tử. Còn cái tác động ma quái (spooky) cũng mâu thuẫn với Thuyết Tương đối
cho không có gì chuyển động tức thời nhanh hơn cả vận tốc ánh sáng.
Nhưng
Cơ học Lượng tử cho rằng, không có thực (realism) hai hạt, mà
hai hạt chỉ tồn tại khi ta thực hiện một phép đo mà Cơ học Lượng tử gọi
là làm suy sụp hàm sóng; và đặc biệt hai hạt có trạng
thái phi định xứ (nonlocality), tức cả hai
là nhất thể, tuy hai mà là một, nên đo cái này cũng chính là đo cái kia,
thí nghiệm tưởng tượng của nhóm Einsetin sẽ không thực hiện được. Nên quan điểm
của Einstein và cộng sự về Cơ học Lượng tử là sai! Tiếc thay, về sau các thực
nghiệm tinh xảo đã chứng tỏ đúng như vậy.
Như
vậy việc hai hạt có trạng thái nhất thể không thể nói như GS Trịnh Xuân Thuận “tương tự
như duyên khởi của Phật giáo”. Vì Duyên khởi nói về nhân
quả, khởi từ cái duyên này sẽ sinh ra cái kia, rồi khởi từ cái “kia” lại
sinh ra cái “kìa”, và cứ thế mãi chứ không nói về nhất thể!
***
Tiếp
nữa, GS Trịnh Xuân Thuận viết:
“Một
thí nghiệm vật lý hấp dẫn và nổi tiếng khác cho thấy tính duyên khởi của hiện
tượng không phải chỉ giới hạn trong thế giới của các hạt nhưng lan rộng ra đến
cả toàn thể vũ trụ là thí nghiệm về quả lắc được thực hiện bởi nhà vật lý Léon
Foucault vào năm 1851 tại điện Panthéon, Paris nhằm giải thích về việc Trái Đất
quay. Tất cả chúng ta hầu như ai cũng đều biết đến đặc tính của quả lắc. Với thời
gian trôi, phương hướng của quả lắc cũng thay đổi theo. Nếu ta bắt đầu cho nó lắc
theo hướng bắc-nam, chỉ vài giờ sau nó sẽ lắc theo hướng đông-tây… Foucault nhận
thức rằng, trong thực tế, cái quả lắc đã lắc cùng một hướng, chỉ có Trái Đất là
đang quay”.
GS
Trịnh Xuân Thuận viết: “cái quả lắc đã lắc cùng một hướng, chỉ có Trái Đất
là đang quay” xem chừng không đúng, thực chất ông GS còn chưa hiểu bản chất
của thí nghiệm trên. Vì Léon Foucault làm thí nghiệm con lắc chứng tỏ khi Trái
Đất quay đã tạo một lực “văng” (khoa học gọi là Hiệu ứng Coriolis) làm mặt phẳng chuyển động của con lắc quay quanh trục của nó. Tại
vĩ độ đi qua Paris, con lắc đã thực hiện một vòng quay thuận chiều kim đồng
hồ sau 30 giờ:
Như
vậy, trái đất quay làm con lắc chuyển động khác hướng chứ không “cùng một hướng”
như ý GS Trịnh Xuân Thuận.
***
Về
con lắc Foucault, ông Phạm Việt Hưng, một giảng sư dạy toán đại học hình như ở
Úc, trong bài Con lắc Foucault và Vũ trụ Nhất thể cũng viết:
“Hơn
mười năm trước, thật ngạc nhiên thú vị vô cùng khi tôi biết rằng con lắc
Foucault có mối liên hệ chặt chẽ với toàn bộ vũ trụ. Thật tuyệt vời!
Đã
hơn nửa thế kỷ trôi qua, nhưng có một kỷ niệm thơ ấu tôi không bao giờ quên: đó
là câu chuyện về con lắc Foucault mà thầy dạy Địa lý năm đầu cấp II của tôi là
thầy Cang kể cho học trò nghe.
Đầu
tiên thầy làm thí nghiệm: buộc một vật nặng vào một sợi dây, đầu kia của sợi
dây buộc vào một chiếc thước kẻ, … và cho vật nặng dao động như một con lắc đồng
hồ… rồi thầy nói:
-
Các em nhìn đây, trong khi thước kẻ quay, con lắc vẫn dao động theo tư thế ban
đầu, nó không chịu quay theo thước kẻ, thế có lạ không?
…Nhưng
chuyện con lắc Foucault không dừng lại ở đó. Nó luôn bám theo tôi với một câu hỏi:
tại sao con lắc giữ nguyên mặt phẳng dao động của nó?”
Nếu
ông Phạm Việt Hưng “ngạc nhiên thú vị vô cùng” về câu chuyện trên thì
tôi cũng “buồn cười vô cùng” vì không phải “con lắc giữ nguyên mặt phẳng
dao động của nó?” như ông nghĩ mà mặt phẳng dao động của con lắc không chỉ xoay
theo chuyển động trái đất mà còn tự xoay tròn vì bị tác động bởi Hiệu ứng Coriolis do chuyển động
quay của Trái Đất!
31-1-2019
ĐÔNG
LA