LỊCH SỬ NHÌN QUA LỖ ĐỒNG XU (Về cuốn Bên thắng cuộc của Huy Đức)
Cách đây trên 10 năm, tôi lập trang DongLa blog người vào đọc rất nhiều. Chỉ vài năm, tại VN đã có trên 589.000 người vào đọc; Mỹ: 57000; Đức: 21 000; Úc: 8000; Canada: 7000; Pháp: 7000; v.v… Tổng số lượt người vào đọc lên đến gần 2 triệu. Có 138 nước có người vào đọc, những chấm đỏ chỉ người đọc đã phủ kín bản đồ 2D thế giới.
Trong giới văn chương, tôi đã gặp hầu hết những nhà thơ, nhà văn đương đại hàng đầu VN, được nhiều người công nhận tài năng, kể cả Chế Lan Viên, Nguyễn Khải. Nhưng với công chúng, đúng như cô Oanh Trinh mới viết, rất nhiều người không biết Nhà Văn Đông La là ai. Đó chính là do lỗi, do sự yếu kém của nền truyền thông VN. Hơn cả thế, đó là còn là một sự bất công, sự sai trái, có những người được lăng xê tột đỉnh với ý đồ xấu, lật sử, trở cờ, phản trắc; có người thành danh, thành đạt do giỏi luồn lách, móc ngoặc, liên minh, liên kết; tất cả điều đó đã tạo ra những tài năng giả, giá trị giả. Tôi đã viết, có những đứa ngu như lợn nhưng được truyền thông tuyên truyền đến lợn cũng biết chúng nó là nhà thơ, nhà văn.
Trang blog của tôi lúc đầu như vậy, nhưng rồi không hiểu “ta” hay “địch” đã chặn, chỉ còn ai biết thủ thuật máy tính mới vào đọc được. Tôi cũng vậy mới vào được trang của mình để duy trì. Chỉ lạ là trang facebook tôi lập sau trang blog chỉ vài năm, không ai chặn, cũng tôi viết thôi mà cho tới hôm nay tất cả chỉ có 2685 người theo dõi. Cô Oanh Trinh có thể đúng, là do tôi rất ít tương tác với bạn đọc.
Cách đây vài ngày, bạn Văn Tùng nhắn tin: “Sắp 30/4 rồi. Bác có thể viết một bài về sự giàu nghèo của bọn ngụy được không ạ. … Dạo này bọn nó hay khoe khoang ngụy giàu”. Hồi mới có blog, bạn Nguyễn Thanh Tùng, chủ trang Đôi mắt blog, nay nickname facebook là Đạo sĩ chăn gà, đã gởi cho tôi cuốn “Bên thắng cuộc” của Huy Đức, nên tôi đã viết một loạt bài in trên blog, riêng bài LỊCH SỬ NHÌN QUA LỖ ĐỒNG XU chính là bài có lượng người đọc nhiều nhất, lên đến nhiều chục ngàn người. Thú vị là tôi đã viết cả chục năm trước nhưng lại rất đúng yêu cầu của bạn Văn Tùng hôm nay .
Bài viết có rất nhiều thảo luận, tôi không ngờ một phụ nữ ghê gớm là chủ blog Beo, nhà báo Hồ Thu Hồng, cũng thích cái bài này: “Bác Đông La sắc và nhanh quá. Tuyệt. Em xin bác bài về nhà mình. Ok? Cám ơn bác một phát đã!”
Về nhân vật Huy Đức , Osin, San “hô” khét tiếng này, Nhà báo Thu Hồng cùng làng báo nên đã quá “nhẵn mặt”, theo Osin Huy Đức - beo - Yahoo! 360plus, chị viết: “Ngày còn làm ở Tuổi trẻ, bạn Osin này là bậc thầy của việc dùng ngòi bút làm kinh tế cá thể, những người… nay còn kể vanh vách giai thoại Huy Đức cầm bút đi trước, nhà thơ Nguyễn Đỗ cầm hợp đồng quảng cáo dí theo sau”. Trên báo chính thống nhà nước http://vietbao.vn/ có bài Ket-luan-dieu-tra-chuyen-an-Nam-Cam, trong đó có đoạn: "Hoàng Linh khai nhận… tổng cộng là 60 triệu đồng do Liên Khui Thìn gửi cho ông … , ông Huy Đức…, mỗi người 20 triệu đồng…"
Tác giả Nguyễn Minh Tâm viết một bài kể chuyện trong vụ Đường Sơn Quán ngòi bút của Huy Đức đã dính máu, bởi với những “từ ngữ miệt thị cay độc nhất có thể nhằm vào cựu trung tá Phan Thanh (Ba Tung, nguyên Trưởng phòng Cảnh sát Hình sự Công an TP Hồ Chí Minh). Mặc dù ông này chỉ đóng vai trò “cộng phạm”… chứ không phải là “chủ mưu” nhưng San Hô đã … không tiếc lời nguyền rủa bản thân ông ta cũng như những người thân trong gia đình ông ta. Cô con gái 16 tuổi của Ba Tung đang học tại Trường Trung học phổ thông Lê Quý Đôn, TP Hồ Chí Minh đã không chịu nỗi cảnh nhục nhã … đã uống thuốc độc quyên sinh”.
Hôm nay, theo yêu cầu của bạn Văn Tùng, cũng nhân những ngày tháng 4 trời thì rất nóng nực, lịch sử thì rực lửa cách mạng, tôi đăng lại bài dưới đây và một phần những lời thảo luận rất sôi nổi thời đó.
22-4-2023
ĐÔNG LA
LỊCH SỬ NHÌN QUA LỖ ĐỒNG XU
(Về cuốn Bên thắng cuộc của Huy Đức)
Trong bài ben-thang-cuoc-vi-sao-toi-viet?, Huy Đức viết:
“Không ai có thể đi đến tương lai một cách vững chắc nếu không hiểu trung thực về quá khứ”; “Một hôm ở nhà Đỗ Trung Quân, nhà báo Tuấn Khanh… nói với tôi: “Anh phải viết lại những gì diễn ra ở đất nước này, đấy là lịch sử”. Gần như không mấy ai để ý đến câu nói đó của Tuấn Khanh, nhưng tôi thì cứ bị nó đeo bám. Tôi tiếp tục công việc thu thập tư liệu với một quyết tâm cụ thể hơn: Tái hiện giai đoạn lịch sử đầy bi kịch của Việt Nam sau năm 1975 trong một cuốn sách”; “Đây là công trình của một nhà báo mong mỏi đi tìm sự thật. Lịch sử cần được biết như nó đã từng xảy ra và sự thật là một con đường đòi hỏi chúng ta không bao giờ bỏ cuộc”. (Hết trích)
Những sự thật quan trọng liên quan đến vận mệnh của đất nước thì ai cũng muốn biết, có điều đâu dễ biết được.
Theo triết học, có cái tận mắt ta nhìn thấy cứ tưởng là sự thật nhưng lại không phải, bởi nó là hiện tượng chứ không phải bản chất. Có những chuyện người thật việc thật vẫn không phải là sự thật bởi chúng chỉ là những mẩu của sự thật mà thôi. Trong khi đó với tôi, sự thật cũng vẫn chưa phải là lịch sử, không phải cái sự thật nào cũng là lịch sử, bởi với mênh mông sự thật trong đời sống thì lịch sử nào chứa cho đủ? Vậy lịch sử là gì?
Có lẽ chỉ sự thật nào có thể trở thành văn hóa, văn minh, những sự thật nào là chủ chốt, bao quát có thể giúp cho hậu thế rút ra những bài học bổ ích thì sẽ thành lịch sử. Tất nhiên không chỉ có những bài học về sự thành công mà có cả những bài học về sự thất bại. Vì vậy, những từ “minh triết”, “hiền minh” là đúng nhất dùng để chỉ những phẩm chất cần phải có của một nhà viết sử. Người ta cần phải thấu suốt hết mọi lẽ, với tấm lòng thiện đức, thì mới có thể viết được sử.
Còn Huy Đức cũng có tham vọng viết sử thì có cái gì?
Đó là một chú bé sau giải phóng bị lóa mắt bởi: “Mấy chiếc xe đạp bóng lộn xếp trên nóc xe; cặp nhẫn vàng chóe trên ngón tay một người làng tập kết vừa về Nam thăm quê ra; con búp bê nhựa – biết nhắm mắt khi nằm ngửa và có thể khóc oe oe … Những chiếc máy Akai, radio cassettes”. Từ đó thấy: “Có một miền Nam không giống như miền Nam trong sách giáo khoa của chúng tôi”.
Tôi (Đông La) khi ấy gần như thuộc lớp bộ đội sau cùng, cũng kịp trực tiếp tham gia chiến dịch HCM. Từ rừng về tôi cũng thấy SG to đẹp, nhưng có lẽ tôi là số rất ít bộ đội không đi lùng mua khung xe đạp, búp bê, radio cassettes, mà cái mong ước lớn nhất của tôi lúc ấy là được về thăm nhà và được vào đại học, chỉ thế thôi!
Huy Đức, đến tận 1983 mới “có một năm huấn luyện ở Sài Gòn… Tôi bắt đầu biết đến rạp chiếu bóng, Nhạc viện và sân khấu ca nhạc. Cho dù, đã kiệt quệ sau 8 năm “giải phóng”, Sài Gòn với tôi vẫn là một “nền văn minh””, để rồi với cách nhìn ấy đã viết nên cuốn sách: “Cuốn sách của tôi bắt đầu từ ngày 30-4-1975, ngày nhiều người tin là miền Bắc đã giải phóng miền Nam. Nhiều người thận trọng nhìn lại suốt hơn ba mươi năm, giật mình với cảm giác bên được giải phóng hóa ra lại là miền Bắc”.
Đó thực sự là cách nghĩ từ một cái nhìn thiển cận. Và với cách nhìn ấy, cái nhìn lịch sử qua lỗ đồng xu như thế thì sẽ viết được cái gì?
***
Trước khi phân tích cụ thể, ta thử xem qua dư luận về cuốn sách của Huy Đức.
Thật kỳ lạ cả phía “ta” lẫn “địch” đều có người chê Huy Đức dữ dội thì có nhóm nhỏ “xuất thân việt cộng” nhưng đang làm thuê cho những ông chủ thuộc “thế giới tự do” thì rất ca ngợi cách nhìn lộn ngược của Huy Đức.
Trong bài ĐỌC “BÊN THẮNG CUỘC” CỦA HUY ĐỨC Posted on 10.12.2012 by nguyentrongtao , ông GS TRẦN HỮU DŨNG, con Bác sĩ Trần Hữu Nghiệp nguyên là bác sĩ riêng của Bác Tôn, một người đang dạy học bên Mỹ, viết:
“Bên Thắng Cuộc” của Huy Đức là quyển sách hay nhất về lịch sử Việt Nam sau 1975 mà tôi được biết… Cuốn sách đầy ắp những thông tin mà tôi chưa từng đọc được trong bất cứ sách báo nào đã xuất bản. Huy Đức là một trong số rất ít (có thể đếm trên ngón một bàn tay!) ký giả Việt Nam hiện nay có khả năng nghiệp vụ cao, dày dặn kinh nghiệm, và nhất là có biệt tài tạo sự tin cẩn ở những người được phỏng vấn về những sự kiện vô cùng “nhạy cảm”, thậm chí “thâm cung bí sử”… “Bên Thắng Cuộc” lột trần nhiều “huyền thoại” về một số lãnh đạo Đảng Cộng sản Việt Nam”.
Trần Hữu Dũng cũng viết: “Trong chương 1, Ba mươi Tháng Tư, Huy Đức đặt một tiểu tựa khiến người đọc ngỡ ngàng. Họ ngỡ ngàng vì biết tác giả là người trưởng thành từ bên kia nhưng dùng hai chữ Tuẫn Tiết đặt cho câu chuyện của các tướng lãnh bên này tự kết liễu đời mình trong ngày chế độ sụp đổ… chỉ có thể dùng hai chữ “tuẫn tiết” chứ không thể có từ nào hay hơn”.
Việc Trần Hữu Dũng khen Huy Đức dùng chữ “tuẫn tiết” để ca ngợi dũng khí của mấy người tự sát, vậy phải chăng đó cũng là cách gián tiếp chê gần một triệu người lính chế độ cũ khác không tự sát là hèn nhát? Còn tôi thấy mấy vị tự sát chẳng cần phải uổng mạng như thế nếu các vị biết Nixon đã thể hiện quyết tâm của Mỹ dứt khoát bỏ rơi VNCH khi quát lên với Kissinger rằng (theo baomoi.com): “Tôi không biết liệu lời đe dọa đó có đủ không, nhưng tôi sẽ làm bất cứ việc chết tiệt gì - hay cắt đầu hắn ta, nếu cần thiết” (I don't know whether that threat goes far enough or not but I'd do any damn thing that is -- or cut off his head if necessary) khi Nixon nói về việc TT Thiệu không muốn ký vào Hiệp định Paris. Đó cũng chính là cái lý do khiến tướng Nguyễn Cao Kỳ từng thốt lên: “Đây là cuộc chiến tranh của người Mỹ và chúng tôi là những kẻ đánh thuê”; rồi: “Việt Cộng gọi chúng tôi là những con rối, những con bù nhìn của người Mỹ. Nhưng rồi chính nhân dân Mỹ cũng gọi chúng tôi là những con bù nhìn của người Mỹ, chứ không phải là lãnh tụ chân chính của nhân dân Việt Nam”. Vậy thì các vị đã tuẫn tiết thì tuẫn tiết vì cái gì? Vì cái gì Huy Đức đã tôn vinh họ? Và vì cái gì Trần Hữu Dũng ca ngợi Huy Đức?
Nguyễn Giang, hiện là Trưởng Ban Việt Ngữ BBC, tra trên mạng thấy: “Name: Nguyen Giang. Born 1972 in Son La, Vietnam. High school and first year of law studies in Hanoi”, nghĩa là cũng là “con Việt cộng” ở Sơn La. Trên bbcvietnamese.com, trong bài Về cuốn 'Bên Thắng Cuộc', Nguyễn Giang viết:
“Các đoạn có giá trị nhất, nhiều tư liệu mới nhất và tổng hợp được cách nhìn của các bên nhất phải kể đến giai đoạn lực lượng cộng sản Nam và Bắc tiến vào Sài Gòn, và thời kỳ quân quản rồi thống nhất hai miền.
… ngòi bút Huy Đức tỏa sáng trong giọng văn âm thầm, cố gắng giữ vẻ bình thản nhưng bên trong sôi sục, thậm chí có chỗ nghẹn đi vì các biến cố đau đớn cho hàng triệu người mà anh chứng kiến cận cảnh, nhất là ở trong tâm thức một người đi bộ đội về và từ Bắc vào sống trong Nam…
Các vụ ‘thâm cung bí sử’ trong chính trường Việt Nam, nhất là giới tướng lĩnh như cái chết của các tướng Nguyễn Chí Thanh thời chiến tranh, rồi những chuyện đột tử của các tướng Hoàng Văn Thái, Lê Trọng Tấn, Đinh Đức Thiện sau này cùng một âm mưu bao vây, hạ thấp tướng Võ Nguyên Giáp được mô tả thật sinh động”. (Hết trích)
Trong một bài, tôi đã viết: “Từ cái nhìn phi lịch sử, chê bai cuộc sống ở trong nước, những kẻ tha phương cầu thực nói đều đúng cả, nhưng đó chỉ là tư duy “phản xạ có điều kiện” của các con vật trong thí nghiệm của Pavlov, chứ không phải là cái nhìn biện chứng của một tư duy triết học”. Ông Giang, ông Dũng cũng được những “điều kiện” ở Anh, ở Mỹ đã tạo ra những “phản xạ” trong nhận thức, nên các ông đã ca ngợi Huy Đức viết ngược như thế.
***
Ngược lại cái tư duy “phản xạ có điều kiện” nói trên, trên haingoaiphiemdam, một chứng nhân được Huy Đức cho vào “trang sử” của mình là Lê Quang Liễn, một Thiếu Tá Quân lực VNCH, đã phản đối Huy Đức:
“Một nhà báo chân chính phải viết cho sự thật, vì lương tâm thì đừng bao giờ gán, chụp cho những người vắng mặt những gì vì lợi ích cho bản thân, phe nhóm”.
MX Phạm Văn Tiền ĐĐ F Khóa 20 Đà Lạt:
“Kính thưa quý diễn đàn.
Gần đây dư luận xôn xao về một quyển sách của tác giả Huy Đức, người từ chế độ cộng sản viết về tài liệu lịch sử của cuộc chiến vừa qua. Qua quyển sách có tên là "Bên thắng cuộc", nhìn toàn diện tác giả dường như muốn diễn đạt và dẫn chứng những điều thật sự xảy ra sau cuộc chiến, nhưng sự thật đó lại là những điều không thật… Những dẫn chứng bịa đặt mặc dầu với những tên khác nhau, nhưng tác giả Huy Đức phải hoàn toàn chịu trách nhiệm những điều không có thật trong quyển sách của mình. Qua quyển sách "Bên thắng cuộc" của tác giả Huy Đức là những viên thuốc đắng có bọc đường”.
Ở chuyện này Huy Đức rất giống Bùi Tín. Bùi Tín từng "chiêu hồi" “Bên thua cuộc”, cố công "lập công chuộc tội" nhưng vẫn bị họ chửi rủa lăng nhục, thậm chí có người còn tố cáo Bùi Tín giết người!
***
Bộ sách của Huy Đức rất dày, riêng cuốn I đã hơn 800 trang, nên bài này tôi chỉ muốn chỉ cho Huy Đức biết thực chất cái “nền văn minh” của Miền Nam trước giải phóng là như thế nào thôi.
Như trong bài về HUỲNH NGỌC TUẤN, HUỲNH THỤC VY tôi đã viết:
“Về sự tươi đẹp của chế độ VNCH, Huỳnh Ngọc Tuấn cũng như không ít người từng ca ngợi và hay mang ra so sánh với Bắc Việt nghèo khổ, có điều họ không hiểu rằng, đó chỉ là “lợi nhuận” của việc chống cộng mà cư dân ở những vùng đô thị miền Nam được hưởng từ việc đánh đổi bằng máu của dân Bắc bởi “chiến tranh phá hoại” và máu của dân cư vùng nông thôn. Theo "Fire In The Lake" by Frances Fitgerald, Vintage Books, New York 1985, pp. 134-139, khi viết về Ngô Đình Diệm, tác giả cũng viết: “Đối với hắn, thế giới hiện đại là Sài-Gòn, cái thành phố ký sinh trùng đó đã trở nên béo mập bởi máu của thôn quê và lợi lộc của Tây phương. (For him, the modern world was Saigon, that parasite city that fattened from the blood of the countryside and the lucre of the West)”.
Cụ thể trong Viện trợ nước ngoài trong Chiến tranh Việt Nam trên Wikipedia theo Nguyễn Nhật Hồng Trưởng bộ phận B29:
"Toàn bộ tiền viện trợ và tiền giúp đỡ của quốc tế cho Việt Nam đánh Mỹ đều tập trung về một đầu mối là B29... Từ 1965 đến 1975, B29 đã tiếp nhận Sáu trăm bảy mươi tám triệu bảy trăm ngàn đô la Mỹ (số tròn) (678.700.000 USD), trong đó hơn sáu trăm hai sáu triệu đô la là tiền viện trợ đặc biệt, hơn hai mươi bốn triệu đô la là tiền của các tổ chức và nhân dân quốc tế ủng hộ, gần 21 triệu đô la là tiền lãi kinh doanh chuyển đổi và gửi ngoại tệ ở nước ngoài, gần bảy triệu rưỡi đô la là lãi từ tiền dự trữ của chiến trường sau giải phóng...".
Tài liệu của CIA giải mật của Hoa Kỳ thì đưa ra những con số ước tính qua 20 năm, Liên Xô, Trung Quốc và các nước xã hội chủ nghĩa đã viện trợ cho Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tổng khối lượng hàng hóa là 2.362.581 tấn; quy đổi thành tiền là hơn 7 tỉ rúp (tương đương 7 tỉ USD, trong đó hơn một nửa là viện trợ quân sự).
Còn Viện trợ quân sự Mỹ cho Việt Nam Cộng hòa:
“Theo nguồn do Việt Nam thống kê thì tổng viện trợ cho VNCH từ 1954 đến 1975 là trên 26 tỷ USD. Theo nguồn của Hoa Kỳ thì tổng viện trợ Quân sự cho VNCH từ 1955 đến 1975 là 16,762 tỉ USD. Lưu ý số vũ khí và viện trợ trên chỉ chiếm một phần nhỏ trong tổng chiến phí của Mỹ ở Việt Nam. Nó chưa bao gồm số vũ khí và chiến phí do quân đội Mỹ trực tiếp sử dụng trong giai đoạn tham chiến trực tiếp 1964-1973, mà theo thống kê là trên 141 tỷ USD chi phí trực tiếp, tương đương 686 tỷ USD theo thời giá 2008. Mặt khác, nhà kinh tế Steven ước tính tổng chi tiêu cuối cùng của Mỹ cho cuộc chiến tranh Việt Nam sẽ lên tới 925 tỷ USD; gấp 3,8 lần chi phí của Mỹ trong thế chiến thứ nhất và chỉ đứng sau chi phí của Mỹ cho thế chiến thứ hai”.
Như vậy tổng chi phí của Mỹ cho chiến tranh VN gấp hơn 130 lần mà phía VNDCCH đã nhận được viện trợ. Vì thế cái “nền văn minh” mà Huy Đức thấy qua “Mấy chiếc xe đạp bóng lộn”; “cặp nhẫn vàng chóe”; “Những chiếc máy Akai, radio cassettes”; rồi: “rạp chiếu bóng, Nhạc viện và sân khấu ca nhạc” v.v… đều có nguồn gốc từ “925 tỷ USD” mà Mỹ đã chi cho cuộc chiến ở VN, kèm theo máu của 58000 lính Mỹ mất mạng nữa, để rồi mất trắng trở về.
Theo Vi Anh trong bài Tâm Tư Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu :
“Tiến sỉ Nguyễn Tiến Hưng đưa ra một vài thí dụ và dẫn chứng của sự kiện lịch sử tiêu biểu nhưng vô cùng đau đớn cho chánh quyến VNCH khi lệ thuộc Mỹ. Về kinh tế nội việc xin Mỹ viện trợ gạo là cả một vấn đế phức tạp, phiền toái mà trăm dâu đổ đầu tằm VNCH phải chịu. Cứ mỗi năm vào 16-5 mùa giáp hạt, thì kho gạo VN hết, từ tổng thống đến chánh phủ phải chạy đôn chạy đáo để cầu viện. Câu viện phải qua 6 bước. Xin Hành Pháp cấp, Quốc Hội chuẩn chi, giải quyết vận chuyễn. Vận chuyễn theo luật viện trợ Mỹ phải đấu thầu chuyên chở. Ông Chủ tịch Ủy Ban chuẫn chì có công ty hàng hải “bồ bịch” muốn công ty của mình được thầu. Làm không khéo, đổ bể các nhà thấu khác la lên thì VNCH mang tiếng xấu, mà không làm cho công ty bồ bịch của Ông thì chuẩn chi khó khăn hay bị cắt giảm. Chở gạo từ Louisiana lên San Fran, từ San Fran về VN. Nghiệp đoàn công nhân bốc dở biết Quân Đội ở Miển Trung đang cần gạo, họ hay đình công để làm tiền. Chánh quyền VNCH không thể trả tiền vòi vĩnh mà cũng không thể ngăn cản quyền đình công của nghiệp đoàn, trong khi Quân Đoàn I xếp hàng xe chờ gạo, lính gần hết quân lương. Chánh quyền phải nhờ các thương gia gạo dàn xếp. Đó là chưa nói gạo viện trợ về bán rẻ thiệt hại cho nông dân VN”.
Chính Nguyễn Văn Thiệu còn có những câu nói để đời rất hồn nhiên thừa nhận việc mình làm một ông Tổng thống “bù nhìn” như sau:
- Mỹ còn viện trợ, thì chúng tôi còn chống cộng;
- Nếu Hoa Kỳ mà không viện trợ cho chúng tôi nữa thì không phải là một ngày, một tháng hay một năm mà chỉ sau ba giờ, chúng tôi sẽ rời khỏi Dinh Độc Lập!
Không chỉ lệ thuộc về kinh tế mà về chính trị chế độ của Nguyễn Văn Thiệu cũng hoàn toàn bị lệ thuộc. Khi Mỹ nhận ra sai lầm trong cuộc chiến ở VN, như việc “cắt lỗ” trong đầu cơ chứng khoán, chính phủ Mỹ đã “vắt chanh bỏ vỏ” Nguyễn Văn Thiệu không thương tiếc. Trong Nguyễn Văn Thiệu – Wikipedia tiếng Việt:
“trong thư của Tổng thống Nixon gửi ông vào ngày 16 tháng 1 có đoạn: "Tôi đã quyết định dứt khoát sẽ ký tắt hiệp định vào ngày 23 tháng 1 năm 1973 tại Paris. Nếu cần tôi sẽ làm đúng như nói trên một mình. Trong trường hợp đó tôi phải giải thích công khai rằng chính phủ của ông cản trở hòa bình. Kết quả sẽ là sự chấm dứt không tránh khỏi và lập tức viện trợ kinh tế và quân sự của Hoa Kỳ - và một sự thay đổi nhân sự trong chính phủ của ông khó mà nói trước".
Trong bức thư đề ngày 6/10/1972, Nixon còn ngầm đe dọa Nguyễn Văn Thiệu không nghe Mỹ sẽ lại như Ngô Đình Diệm: "Tôi yêu cầu ông cố áp dụng mọi biện pháp để tránh sinh ra sau này một tình huống có thể đưa tới những biến cố tương tự như biến cố mà chúng tôi đã ghê tởm năm 1963 và chính bản thân tôi cũng đã kịch liệt phản đối năm 1968...".
Henry Kissinger về sau trong hồi ký của mình đã cho rằng: “Nguyễn Văn Thiệu đã điều hành quốc sự theo một kiểu "tàn bạo", "xấc láo", "ích kỷ, độc ác" với những "thủ đoạn gần như điên cuồng" khi làm việc với người Mỹ”; Kissinger cũng tiết lộ rằng, khi nói về việc Nguyễn Văn Thiệu ngăn cản Mỹ ký hiệp định Paris, Tổng thống Nixon đã giận dữ thốt lên: "Ông sẽ hiểu thế nào là sự tàn bạo nếu tên đểu giả đó không chịu chấp thuận. Ông hãy tin lời tôi."
Một “nền văn minh” luôn tùy thuộc vào chế độ chính trị và tiềm lực kinh tế. Vì những lẽ trên đây mà người ta đã cho cuộc sống ở Sài Gòn trước 75 chỉ là “phồn vinh giả tạo”. Mà nền kinh tế ấy cũng lại: “ở miền Nam, Hoa kiều kiểm soát gần như toàn bộ các vị trí kinh tế quan trọng, và đặc biệt nắm chắc 3 lĩnh vực: sản xuất, phân phối, và tín dụng. Đến cuối năm 1974, họ kiểm soát hơn 80% các cơ sở sản xuất của các ngành công nghiệp thực phẩm, dệt may, hóa chất, luyện kim, điện... và gần như đạt được độc quyền thương mại: 100% bán buôn, hơn 50% bán lẻ, và 90% xuất nhập khẩu. Hoa kiều ở miền Nam gần như hoàn toàn kiểm soát giá cả thị trường”.
Đó là những thông tin chỉ bấm một phát là ra trên Google, vậy mà Huy Đức đến tận bây giờ còn mù quáng thì thử hỏi còn tham vọng viết lịch sử cái gì?
***
Còn cuộc sống ở ngoài bắc trước 1975, Huy Đức cần phải hiểu nếu không có chiến tranh, nếu miền Bắc không phải “Thóc không thiếu một cân, quân không thiếu một người”, “tất cả vì Miền nam ruột thịt” thì chắc chắn mức sống 2 miền Nam, Bắc không quá chênh lệch như thế!
Cũng liên quan đến Kissinger, cũng về sự lệ thuộc nước ngoài, Lê Mai trong bài Ba bảo bối của Lê Đức Thọ viết về Lê Đức Thọ, một nhân vật mà Nguyên Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Dy Niên cho "Ông ý là nhà ngoại giao khổng lồ; nguyên Tổng bí thư Lê Khả Phiêu đánh giá là một “phái viên chiến lược toàn năng, có thể ví như một tướng quân tài ba thao lược” (VietNam.net); còn Huy Đức trong cuốn sách của mình đã cố công bôi đen hình ảnh của ông bằng những tư liệu không chính thống; nhưng thực tế, với Nguyễn Văn Thiệu, ta càng thấy nhục cho người Việt mình trước người Mỹ bao nhiêu thì với Lê Đức Thọ, ta lại càng tự hào bấy nhiêu. Lê Mai đã viết:
“Kissinger viết: “Tóc hoa râm, đường bệ, Lê Đức Thọ bao giờ cũng mặc bộ đại cán màu xám hoặc ma-rông. Đôi mắt to và sáng, ít khi để lộ sự cuồng tín đã thúc đẩy ông hồi mười sáu tuổi đi theo phong trào du kích cộng sản chống Pháp. Ông bao giờ cũng tỏ ra rất bình tĩnh, thái độ bao giờ cũng không có điều gì chê trách được, trừ một hai lần. Ông hoàn toàn biết ông muốn gì và phục vụ lý tưởng của ông một cách tận tụy và khéo léo”.
Kissinger dường như tin rằng chìa khóa để giải quyết vấn đề VN là ở Mátxcơva và Bắc Kinh.
- Ngài cố vấn qua Bắc Kinh, Mátxcơva, chắc đã được các bạn của ngài thông báo về ý kiến của chúng tôi trong đợt đàm phán này - Kissinger khiêu khích.
- Bạn chúng tôi ủng hộ chúng tôi, nhưng không làm thay chúng tôi. Mấy năm qua các ông cứ chạy vay chỗ này chỗ kia, chỉ làm phức tạp thêm vấn đề. Trong một ván cờ, quyết định thắng thua phải là người trong cuộc, không có cách nào khác. Chúng tôi độc lập giải quyết vấn đề của chúng tôi - Lê Đức Thọ trả lời.
Khi Kissinger thông báo, Sài Gòn sẽ không ký, Lê Đức Thọ nói với Kissinger: “Năm năm nay không bao giờ ông để tôi tin ông lấy một lời. Ông hứa danh dự rồi chính ông lại dí ngay lời hứa đó xuống chân ông. Ông lật lọng hết mức”.
Kissinger bực lên và đáp: “Ông nói là lời của tôi vô giá trị, thế thì ngồi đây đàm phán làm gì. Tôi phải tính đến chuyện lần sau để người khác đàm phán với ông, tôi với ông không đàm phán với nhau nữa”.
Kể cũng lạ, đi đàm phán với đối phương là giáo sư Đại học Harvard lừng danh mà Lê Đức Thọ nhiều khi ứng xử như với cán bộ cấp dưới của mình, nghĩa là tiếng oang oang, chỉ mặt lên tay, thậm chí còn nói thẳng ra rằng Kissinger là kẻ nói láo!
Một hôm, trước bữa nghỉ ăn trưa, Kissinger nói với Lê Đức Thọ:
- Hiện giờ ông cố vấn đàm phán với tôi thì ông nói như mắng tôi; sau này kết thúc đàm phán, chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình rồi, thì ông mắng ai?”.
***
Tóm lại, Bên Thắng cuộc là cuốn sách được Huy Đức viết rất kỳ công, chi li, nhưng những cái bình thường thì đều đã được đăng tải trên sách báo chính thống, còn những cái khác thường thì cũng đã đăng tải trên mạng. Riêng tôi thì còn biết hơn nhiều lần kể cả số lượng cũng như độ ‘ghê gớm” của những tư liệu, quan trọng là phải biết có cần viết ra hay không mà thôi. Chỉ có điều đặc biệt là Đức khoe do công việc nên đã được gặp và phỏng vấn nhiều nhà lãnh đạo và những cán bộ cao cấp, đảm bảo tính chính xác của thông tin, bởi đều là những chuyện người thật việc thật. Nhưng như tôi đã viết, dù đúng là chuyện người thật việc thật, nhưng nếu chỉ là cái nhìn chủ quan, phiến diện, cục bộ thì chỉ là những mẩu sự thật chứ chưa phải là sự thật. Mà Lịch sử lại cần phải được viết bởi sự minh triết để có thể bao quát thấu suốt, viết ra được bản chất sâu xa nhất của các sự kiện, để đời sau rút ra được những bài học bổ ích. Trong khi đó Bên thắng cuộc lại chỉ xoáy vào cái xấu, cái yếu kém, lại được nhìn nhận bằng một cái tâm tối trí thấp, nên cái mà Huy Đức viết ra không phải là lịch sử với ý nghĩa cao quý nhất của nó mà chỉ là những ghi chép vụn vặt, sai lạc. Theo tôi, đây là cuốn sách rất nguy hiểm bởi cái vẻ khách quan, và thái độ điềm tĩnh khi liệt kê chi li các vụ việc; người có thành kiến, người ít hiểu biết và nhất là lớp trẻ rất dễ bị dẫn dắt để tin đó là sự thật!
***
Với những Chỉ thị về việc “Nói và viết những vấn đề liên quan đến lịch sử và lãnh đạo Đảng, Nhà nước”, chắc chắn Huy Đức đã phạm pháp. Phải chăng Huy Đức không sợ vì đã noi theo Herostratos (‘Ηρόστρατος), một thanh niên thời cổ đại, hy vọng sẽ trở nên nổi tiếng đã phóng hỏa đốt Đền thờ thần Artemis? Chắc không phải vậy, mà Huy Đức chỉ noi theo một số người ở chính nước ta đã nổi danh bằng cách nói ngược. Điển hình như bà Dương Thu Hương mà Đức đã coi như thần tượng từng nói là đã khóc như cha chết trong ngày giải phóng vì thấy đội quân chiến thắng của mình là đội quân man rợ. Có điều bà này cũng xạo, cũng là kẻ như các cụ nói là lá mặt lá trái, cơ hội, vì thực tế, ngày mới giải phóng bà ta không "khóc" mà đã viết truyện “Loài hoa biến sắc” cho “nền văn minh” của SG, cái “nền văn minh” đã làm lóa mắt Đức đó, chỉ là “Một lớp giấy trên chiếc rọ làm hình nhân bị xé rách. Một lớp váng dầu ngũ sắc bị khuấy tan trên mặt nước tù” mà thôi! (Còn tiếp)
TPHCM
24-12-2012
ĐÔNG LA
THẢO LUẬN
LangKinh • 9 năm trước
Tôi luôn mong muốn có thật nhiều người đọc blog này. Đặc biệt đội ngũ cán bộ làm công tác chính trị (tuyên huấn, tuyên giáo) cuả đảng và nhà nước nên thường xuyên ngiên cứu các bài viết của Đông La.
Hoa Binh • 9 năm trước
Em rất thích cái cảm giác được thuyết phục bởi những bài viết của Đông La. Luôn ngưỡng mộ và kính phục bác.
Bloger Beo- Hồ Thu Hồng
Hoa Binh nói cực chuẩn. Bác Đông La sắc và nhanh quá. Tuyệt. Em xin bác bài về nhà mình. Ok? Cám ơn bác một phát đã!
Lamda • 9 năm trước
@ Không Nho:
Huy Đức đã từng nhận tiền của Năm Cam (khi đó Năm Cam là chủ của HĐ và việc này Nhà báo Hoàng Linh, vốn là lính của HĐ, tố cáo như bạn Lee đã biết rõ). Một kẻ nhắm mắt (bảo kê cho tội phạm) vì tiền như thế thế thì bảo hắn hiện cũng đang có chủ mới và viết để tâng công cũng đâu có oan.
Cái “một chiều” của HĐ ở đây chỉ là vì tiền thôi, chứ đa chiều cái gì. Khi đã biết HĐ là con người thế này rồi thì mọi “ní nẽ” của ông dù sai hay đúng cũng chỉ là nguỵ biện thôi.
Anonymous • 9 năm trước
Tại sao không có nhiều người viết được như anh Đông La? Sự phê phán những kẻ tráo trở với đất nước, những kẻ vong ân bội nghĩa là trách nhiệm của người cầm bút đâu rồi? Người dân chúng tôi không thể có đ/kiện đọc nhiều nên rất cần những người làm công việc phê bình văn học chân chính ./.
Giuse Lê Thắng • 9 năm trước
Anh Đông La thân mến!
Tôi mới được biết blog của anh gần đây thôi, liền sau đó tôi tình nguyện làm độc giả thường xuyên của anh, gần như ngày nào cũng ghé vào blog của anh, không vào lại cảm thấy thiêu thiếu. Tôi đã rất thích cái cách tranh luận của anh: thẳng thắn và không khoan nhượng.
Tôi là người công giáo, từng nếm trải những năm tháng khó khăn xung quanh mốc lịch sử 1975. Chọn cho mình quyết định ở lại vào thời điểm đó quả không dễ dàng gì. Bạn bè tôi rất nhiều người đang định cư ở Mỹ, một số đã có cuộc sống sung túc, song không ít người vẫn phải bươn chải vì tiền phúc lợi không đủ, con cái cũng không giúp đỡ được... Bản thân tôi cũng bị đối xử khắt khe sau giải phóng, nhưng dần già, bằng năng lực của mình tôi cũng đã tạo cho mình một vị trí trong xã hội bằng con đường làm kinh tế. Con cái tôi cũng thành đạt, có trình độ, trí tuệ nên cũng chẳng phải chịu chèn ép gì, một trong số đó đã là đảng viên CSVN...
Anonymous • 9 năm trước
Cám ơn bác Đông La rất nhiều về bài viết rất minh triết này. Bài viết cho thấy cuộc đấu tranh giữa 2 con đường là vô cùng phức tạp, gian khổ và lâu dài... Chúc bác và gia đình mạnh khỏe và bác có nhiều bài viết hay hơn nữa.