ĐÔNG LA
 N N H  N
(Truyện ngắn)
Tưởng nhớ Khu, Thinh
và các đồng đội E5, QK Miền Đông
Lại một tiết đầu đông cuối thu; trời đã lấm tấm rét, dường như trên thinh
không vời vợi có một cánh tay khổng lồ đang xắn từng tảng không khí rét ngọt
của mùa đông trộn vào cái ngôi nhà bao la, xanh thẳm, trong văn vắt của mùa
thu; như
mọi lần, Huy lại lững thững trên con đường sau làng. Anh thường chọn khoảng
thời gian giao mùa này về quê, để cùng lúc có thể gặp được cả hai: một mùa
anh thích, một mùa anh thiếu. Anh yêu mùa thu, cái mùa có vẻ gì đó dịu dàng
thanh khiết như tính cách của một thiếu phụ. Còn mùa đông? Có lẽ, chính mùa
đông mới là mùa để lại trong anh nhiều ấn tượng hơn cả. Anh nhớ những buổi
sáng co ro đi học trong không gian mù sương; anh nhớ cái cảm giác ấm áp mà
dường như chỉ trong giá rét lạnh căm ta mới nhận ra hết được ý nghĩa của nó;
và diện mạo của hạnh phúc, bất hạnh của một kiếp người như cũng hiện ra rõ
nét hơn. Thấm thoắt thời gian anh sống xa quê đã nhiều hơn cả ở quê rồi! Anh
biết mình chưa là gì, nhưng so với những người dân lam lũ trên quê, có vẻ anh
đã là một người thành đạt. Anh giống như một con đom đóm bị mất dạng trong ánh
điện phố thị chói lòa, nhưng lại tỏa sáng rực rỡ giữa đêm quê; khiến anh về
quê không phải để thăm quê, mà như đi gặp chính mình. Anh nhận ra mình trong những
tiếng xì
xào, trong sự vồn vã chào hỏi: “Đẻ ra được đứa con như bá
đúng là nó mát, chứ cứ như bọn em đây nó rát lắm bà chị ạ !”. Có một
bà già từng nói với mẹ anh thế. Riêng anh, anh chẳng bao giờ thỏa mãn cả, anh đã
có được những cái mà ngày xưa trong mơ cũng không thấy, không hiểu sao vẫn
thường xuyên âu lo và mệt mỏi; phải tại cái tham vọng không cùng, hay tại cái
nhịp sống đua chen quá căng thẳng nơi phố thị? Chính những lúc ấy, hình ảnh
những người dân quê chất phác lại hiện lên an ủi anh, anh kính phục họ, bởi
cuộc sống của họ quá vất vả nhưng họ vẫn vui vẻ, nghị lực của họ cũng mới
vững vàng làm sao! Trong một đất nước có quá nhiều biến cố, chính từ những
con người bình dị ấy đã hợp thành cái sức mạnh vô địch làm nên bao kỳ tích,
những người sẵn sàng hy sinh tất cả, nhưng lại không quan tâm lắm đến việc sẽ
được nhận lại cái gì! Anh chợt nhớ đến bạn bè thuở thiếu thời, qua cuộc chiến
khốc liệt, đứa còn đứa mất... có đứa đến nấm mộ cũng không, thân thể có khi
chỉ còn là một bó rễ cây tại một cánh rừng lạnh ngắt nào đấy! Như vậy, chỉ
mỗi việc anh còn được sống thôi đã là may mắn quá rồi! Thế mà...
Cứ vừa đi vừa nghĩ, anh ra bờ sông chọn một vạt cỏ êm, gần chiếc cầu bê tông,
ngồi xuống. Vẫn còn kia cây đa cổ thụ với những chạc ba khổng lồ có thể nằm trên
đó được, từng bó râu nặng vẫn lững lờ buông chấm mặt sông. Có điều, nó lại có
vẻ rũ rượi, lá cứ héo úa, vàng sậm; sau mỗi đợt gió chiều lăn tăn thổi, những
chiếc lá quăn queo chao mình rơi xuống lòng sông, trông như những giọt
nước mắt. Người ta bảo, nó khóc một ông già nên buồn mà sinh bệnh. Ông chính
là người cuối cùng của một dòng họ, không biết từ bao đời, đã trồng nên
nó.
- Người ta bảo thế có phải không mẹ? Huy về nhà hỏi mẹ.
- Ờ thì người ta có bảo thế.
- Nhưng ông ấy chết lâu chưa?
- Chẳng còn ai, nên không biết cúng kiếc thế nào, cũng chẳng biết là đã 49
ngày chưa?
Anh chợt thấy nhói lên trong lồng ngực và ngợp thở, phải thở dốc mấy cái mới
bình tâm trở lại. Có phải trong cuộc mưu sinh và rượt đuổi bao ảo ảnh phù du,
anh đã trở thành một kẻ tệ hại rồi không?
***
Cuối năm 1972, sau đợt B52 đánh phá Hà Nội, lớp học cấp III của Huy và Nhữ, sau
kỳ thi đại học, tham gia đợt tuyển quân. Riêng Nhữ được hoãn vì nhà chỉ còn
một mình, người anh Nhữ mới hy sinh.
Một đêm, chính tại chỗ mà Huy vừa ra ngồi đó, hai anh bạn cũng đã ngồi trò
truyện sau buổi khám sức khỏe:
- Có lẽ kỳ này mình cùng đi với Huy thôi, Huy ạ.
-Thôi
ở nhà đi học đại học. Học như mày thi làm gì mà không đỗ. Có khi còn được ra
nước ngoài nữa ấy chứ!
- Mình cũng chẳng có anh hùng gì đâu, nhưng thấy các bạn đi hết, riêng mình được
đi học, cứ cảm thấy hèn hèn, như là ăn vụng một cái gì ấy!
- Mày đúng là lẩn thẩn. Không lẽ trong chiến tranh cứ phải ra trận mới vinh quang
thôi sao. Mày không nhớ thầy dậy lý kể chuyện bác Trần Đại Nghĩa ở Viện Khoa
học đấy à, bác ấy cải tiến vũ khí bắn rơi B52 làm bọn phi công Mỹ chết khiếp!
Công nhận là oách thật! Nếu không phải đi bộ đội, tớ cũng muốn đi học để
thành nhà khoa học như bác ấy.
- Ừ, thầy chủ nhiệm bảo Huy có tài đấy, chỉ tại lười thôi, thầy bảo Huy có
máu nghệ sĩ, lúc hứng lên thì học không ai theo kịp. Kể không có chiến tranh,
chúng mình cùng đi học với nhau thì vui nhỉ? Mà tại sao lại có chiến tranh?
Huy im lặng. Lúc này anh chàng học sinh không thể trả lời được câu hỏi quá
hắc búa ấy. Mãi sau này, Huy cũng đã tự hỏi và cũng đã tự trả lời nhiều lần.
Anh thấy, chiến tranh thực chất là sản phẩm của cái lòng tham. Những kẻ có
sức mạnh dễ sinh lòng tham, khi thực hiện cái lòng tham đó tất phải xâm phạm
vào cuộc sống người khác. Và tệ hại nhất người ta còn đưa ra một thứ triết lý
về sức mạnh. Nó đề cao và biện minh cho cái ác: bản chất của con
người luôn muốn vươn tới cái siêu việt, vì thế, tất phải giết chóc lẫn nhau
để tranh đoạt! Chính vậy mới có kẻ như Hít-le từng cho rằng, loài người
sinh ra có giống thượng đẳng, giống hạ đẳng; và giống thượng đẳng thì có
quyền tiêu diệt và thống trị giống hạ đẳng! Không ngờ suốt chiều dài thăm
thẳm của lịch sử, loài người đã bị cuốn theo cái lòng tham ác độc đó, các
cuộc chiến to nhỏ đã nối nhau diễn ra và món khoái khẩu nhất của chúng chính
là máu, là thịt tươi!
Thấy Huy không trả lời, Nhữ lại tiếp:
- Để Huy đi một mình tớ cũng lo lắm. Thôi, kỳ này cho tớ đi với nhé, cho vui!
- Mày buồn cười, lúc nào cũng cứ như ... chị tao ấy. Mà mày muốn đi thì phải hỏi
thày mày chứ, rồi còn các chú ở xã đội nữa.
- Các chú ở xã đội thì không lo, đang tổng động viên mà, còn thầy tớ tớ cũng
đã hỏi rồi. Đầu tiên tưởng ông già không cho, không ngờ ông lại bảo, đến Hà
Nội cũng còn bị bỏ bom, chiến tranh leo thang thì dù có ở quê để tránh hòn
tên mũi đạn cũng chưa chắc có tránh được, tớ muốn đi thì đi!
Sau gần ba chục năm, cuộc nói chuyện hôm nào vẫn còn hiển hiện trong ký ức
Huy. Là người trong cuộc, chính anh vẫn phải luôn ngạc nhiên mà tự hỏi rằng,
không biết trên trái đất này có dân tộc nào như vậy không, có một thời, thanh
niên đã rủ nhau đi bộ đội, vào nơi đầu rơi máu chảy cứ như đi trảy hội?!
***
Sau một năm huấn luyện tại vùng đồi Quảng Ninh, đầu năm 74, đơn vị Huy và Nhữ
vào chiến trường. Nửa năm đầu cả hai đều được chọn trong số những người có
học khá làm đội mẫu của Ban Quân huấn Quân khu Miền Đông, đóng tại Chiến khu
Đ. Công việc của họ vẫn là huấn luyện để diễn tập minh họa trong những đợt
chỉnh huấn.
Lúc đầu, bộ mặt ghớm ghiếc của chiến trường chưa hiện ra trước những người
lính trẻ. Mảnh đất “Gian lao mà anh dũng” đã mang đến cho họ nhiều
chuyện lạ; họ được biết nhiều loại trái cây rừng như gùi, trường, dâu da…; họ cũng vô vàn thích thú khi ban đêm được đội
đèn đi săn cùng những bậc đàn anh kỳ cựu, rồi được thưởng thức đủ loại thịt
thú, từ heo, nai, mễn, cheo, rùa, kỳ đà đến cá sấu... Ban ngày họ tập lại
những bài tập đánh lấn, đánh công sự vững chắc, đánh binh chủng hợp đồng,...
Ban đêm, tòng teng đu đưa trên những cánh võng, dưới mái lá trung quân; giữa
nền đêm sâu thẳm, tĩnh lặng, họ nằm nghe tiếng sông Đồng Nai rì rầm trò
truyện cùng với những vách đá rêu phong, tiếng thú rừng thảng thốt gọi
bạn giữa đêm khuya... Thì ra, giữa chiến trường không chỉ có ác liệt,
mà cũng nhiều thơ mộng lắm. Đó chính là những lúc hiện về trong đáy sâu tâm
khảm họ hình bóng của mẹ và những người thân yêu, và bồi hồi hơn cả là những
cô bạn gái! Dù tuổi 17, 18 ở thôn quê thời ấy, hầu hết họ thường mới chỉ biết
thập thò trước ngưỡng cửa của ngôi nhà tình yêu, còn bao nhiêu bí mật huyền
diệu, nguyên trinh vẫn được cất giấu rất kỹ lưỡng phía sau những cánh cửa!
Huy và Nhữ cũng có một người bạn gái cùng xóm như thế. Họ chơi với nhau, học
với nhau từ nhỏ. Nhưng khi người con gái đến thời má thắm môi hồng, bộ ngực
căng dần dưới lớp áo mỏng, với bản tính nhường nhịn, Nhữ đã dần tự tách ra
một khoảng cách, tạo điều kiện cho Huy gần Liên Hơn.
Đêm đêm, đung đưa trên cánh võng, thỉnh thoảng nỗi nhớ Liên cồn cào, da diết
lại tràn ngập lòng Huy; trong xa cách, người bạn gái hiện lên mới đẹp và dịu
hiền xiết bao! Anh cũng có một buổi chiều chia tay giống như bao chàng lính
trẻ khác. Chiều ấy, cũng chỗ cây cầu, anh ngồi đợi Liên. Ở vị trí ấy, mặt
trời đỏ ối trước khi khuất dần sau đường chân trời, len lỏi như giăng mắc ở
các cành đa. Cả một khoảng trời rực lên một phông ánh sáng đã được hơi nước
tán sắc thành mầu cam sậm, vô vàn tia hồi quang muôn hồng ngàn tía dệt nên
trên đó những dải nan quạt. Lúc đó, Liên đến với anh, tóc bay bay, rực sáng,
trông Liên không phải đi mà như lướt trên mặt đất; không phải từ một ngõ nhỏ
ra mà như trên tận chín tầng trời buớc xuống, bằng chính những bậc thang ánh sáng!...
Nhưng thực sự giữa hai người mới chuyển từ giai đoạn xưng hô “mày, tao” trẻ
con sang gọi tên chứ chưa một lần nói đến chữ yêu. Trước khi xa nhau, không
thể không nói, nên Huy đã ngập ngừng:
- Kỳ này tôi đi bộ đội, Liên có buồn không?
- Liên không buồn... chỉ... nhớ thôi.
- Thế... Liên nhớ ai?
- Hỏi thế mà cũng hỏi, ghét ghê!
- Liên ơi, hôm nay tôi muốn nói với Liên... một chuyện... quan trọng đấy.
- Huy nói đi... không sao đâu!
- Ờ... tôi muốn nói là... là tôi... mai đi bộ đội đấy!
- Thì... Liên biết rồi mà.
- À, đúng rồi, tôi muốn nói là... Liên ở nhà đi học tiếp nhé. Nhớ bao giờ đi lấy
chồng đừng quên tôi.
- Ứ... Liên sẽ không đi lấy chồng đâu!
Cứ thế, như bao đôi trai gái thẹn thùng khác, điều muốn nói Huy vẫn chưa nói được.
Hồi nhỏ, chí choé cấu véo nhau thật tự nhiên, nhưng lúc chia tay, một
cái nắm tay vẫn ngại. Đọc tiểu thuyết thấy chỗ nào nói đến chữ hôn là đánh
dấu thật kỹ, thỉnh thoảng lại dở ra đọc đi đọc lại; trong những đêm trằn trọc,
ngọn lửa bản năng cháy bùng lên mãnh liệt trong cơ thể trẻ trung của những
chàng trai, những “vùng cấm” trên thân thể người thiếu nữ thực sự là thiên đường
bí mật; thế nhưng trước người yêu, rất ít trai làng dám khám phá, ngay cả việc
đơn giản nhất là thực hiện một cái hôn thôi! Để rồi, sẽ lại nuối tiếc cả một
đời. Cái hôn ở thôn quê thời ấy vẫn là một điều “hệ trọng”. Giữa cánh rừng
thăm thẳm, Huy cũng thấy tiếc nuối, nếu mai đây, giả dụ trong cuộc chiến này
mình mất đi, hóa ra cái hôn mặt ngang mũi dọc thế nào vẫn chưa biết! Khỉ thật!
Huy thấy người bạn gái thật hiền, chẳng khác gì cô Tấm trong câu chuyện cổ,
nhưng cô Tấm của Huy không nón thúng quai thao, áo dài tứ thân, chỉ áo gụ, cổ
trái tim thôi... Bất chợt, những vần thơ không biết ở đâu bỗng chốc hiện về .
Anh liền đốt vội chiếc đèn dầu mà lính Miền Đông thường tự tạo bằng chai dầu
muỗi, lấy giấy bút cặm cụi viết:
Những hạt mưa mang theo mầu đêm
Rơi êm đềm trên tán cây, vạt cỏ
Những hạt mưa đều đều như nhịp thở
Làm trào lên nỗi nhớ đêm nay!
Ở nơi em mưa có đang bay?
Để mát lành vây quanh giường em ngủ...
Huy chợt giật nẩy người khi giọng Nhữ bất ngờ vang lên:
- Ông tướng làm thơ hả, nhớ nàng rồi phải không? Vừa nói Nhữ vừa giật tờ giấy
trong tay Huy - Đưa tớ đọc thử xem sao?
- Thơ tớ chỉ là thơ con cóc thôi, cậu thấy đấy, hồi đi học toàn xơi ngỗng môn
văn, thỉnh thoảng lắm mới được điểm năm.
Nhưng đọc xong, Nhữ lại reo lên:
- Ô! Thơ Huy cứ như thơ của nhà thơ chính hiệu ấy. Hay thật! Nhưng sao trời đang
sáng trăng vằng vặc thế này mà lại nói là trời mưa?
- Mày không thấy người ta bảo nhà văn nói láo nhà báo nói phét à? Sáng tác
thì phải bịa chứ! Tao viết về nỗi nhớ, nỗi nhớ tức là phải buồn, vì thế phải
nói trong khung cảnh trời mưa sẽ hợp hơn. Đấy, tao nghĩ như thế đấy.
- Ừ, thầy dạy văn cũng bảo, muốn sáng tác phải có năng khiếu chứ không phải
cứ học giỏi môn văn là được đâu. Mà Huy đâu phải học dốt văn, chỉ cái tội lười
không thuộc thơ văn để lấy dẫn chứng khi làm bài thôi.
- Đúng thế thật! Tao không bao giờ thuộc nổi thơ văn trong sách giáo khoa mày
ạ!
***
Thời gian thơ mộng đối với những người lính trẻ qua nhanh, cuối năm 74, bộ mặt
chiến tranh thực sự hiện ra với đầy đủ sự hung tợn, ác liệt của nó. Lúc này,
tại Quân khu bộ, những người lính cơ quan cũng được tổng động viên, một trung
đoàn được thành lập để bổ sung cho Cánh quân hướng Đông. Cuộc Tổng tấn công
vĩ đại chưa từng có trong lịch sử dân tộc sắp bắt đầu! Huy và Nhữ vẫn được ở
cùng nhau trong một trung đội thuộc C2, D74, E5, Quân khu Miền Đông.
Sau nhiều năm, những hình ảnh của một thời gian khổ, khốc liệt nhưng hào hùng
ấy, tuy không còn mạch lạc, nhưng luôn khắc sâu những ấn tượng trong ký ức
Huy. Những buổi chuyển quân vai chảy máu khi phải vác những quả đạn to như
con lợn nhỡ; mùa mưa đất đỏ bám theo mỗi bước đi nặng trịch như đeo hai quả
chùy; dốc cao trơn nhẫy, bàn chân phồng rộp, bỏng rát, tứa máu, còn luôn bị
trượt khỏi dép, đạp lên những hòn sỏi, buốt thấu đến tận tim óc! Những đêm
đào công sự sỏi trắng, sỏi đỏ chặt như nêm, cuốc chim tóe lửa, không gì thất
vọng cho bằng phía dưới lại hiện ra lù lù cái lưng tảng đá xám ngoét như lưng
con voi; giờ G đã sắp điểm mà phải bắt đầu đào lại. Những lúc như vậy,
bên Huy lúc nào cũng có Nhữ đỡ đần, thằng bạn răng hơi vổ, da hơi đen,
tính tình chu đáo như một bà chị cả, nhưng lại khỏe mạnh chắc nịch như một
tay lực điền chính hiệu. Hồi đi học, dù điểm thi thường là cao hơn Huy nhưng
Nhữ lại rất phục Huy, bởi Nhữ biết là Huy có tài. Huy ít học bài, nhưng những
bài toán khó nhất cả lớp không ai giải được, thì người lên giải sẽ lại chính
là Huy, cái thằng bạn khác người, thất thường, lầm lì, mắt xếch, vóc dáng có
phần hơi ẻo lả. Một trong những lý do có vẻ ngây ngô khiến Nhữ xung phong đi
bộ đội là để được ở bên giúp Huy, vì Nhữ thấy tính Huy không hợp với chiến
tranh. Chiến tranh cần sự cẩn trọng, chu đáo, kiên trì, kịp thời...; chiến
tranh không mang tâm hồn nghệ sĩ; nó không có chỗ cho sự tùy hứng. Viên đạn
ra khỏi nòng súng bay rất nhanh và thẳng, cứ thế xuyên qua mục tiêu, nó không
biết xúc động!
Giờ đây, trong tất cả những hình ảnh xa vợi, hỗn độn, nhòa nhạt của quá khứ,
thì trong ký ức Huy, trận đánh đầu tiên, hình bóng thằng bạn thân yêu, luôn
hiển hiện rõ nét hơn tất cả.
***
Trận ấy, đơn vị của Huy và Nhữ được giao nhiệm vụ dùng 1 tấn bộc phá giật đổ cây
cầu La Ngà bắc qua sông Đồng Nai trên một tuyến giao thông quan trọng, rồi
trụ lại chốt chặn, cắt đường chi viện của Sư 18 địch, để quân ta tiến hành
chắc thắng những trận đánh phía Phương Lâm, Định Quán. Với những người
lính binh nhất 19 tuổi như bọn anh thì chỉ hiểu được láng máng như vậy.
Đêm ấy, hai đại đội, C2 của Huy và Nhữ và C1 thuộc D74, tiếp cận
ấp La Ngà, mỗi đại đội một bên đường, hỗ trợ cho một trung đội đặc công thủy chuyển
khối bộc phá tiếp cận mục tiêu; giờ G điểm hỏa, các bộ phận sẽ xông lên đột
ấp, xây chốt...
Từ nơi đóng quân bên một khe suối, hành quân qua những khu rẫy chuối, đu đủ
trĩu quả, những rừng mía bạt ngàn, đoàn quân rồng rắn nhấp nhô, súng đạn đầy
mình, lầm lũi đi trong ánh hoàng hôn. Đến một rẫy mía ở bìa ấp đơn vị dừng
lại.
Mọi người để nguyên ba lô ngả lưng, chờ đợi. Lúc này, Huy đã tự hỏi,
không biết rồi sau trận đánh này trở về sẽ thiếu ai, số đó có mình không? Nếu
có, không biết mặt mũi cái chết sẽ như thế nào? Những người bạn cũng đang im lặng,
đang trầm tư như anh kia, trước trận đánh đầu tiên này, không biết họ đang
nghĩ gì? Sau này, Huy đã được xem nhiều phim ảnh chiến tranh, với con mắt của
người từng tham chiến, anh thấy nhiều phim, người lính chỉ như là những mô
hình để thực hiện các ý đồ của đạo diễn: hoặc hớn hở coi cái chết nhẹ tựa
lông hồng, hoặc mặt đằng đằng sát khí coi quân địch như cỏ rác. Không, không
phải! Người lính trong chiến trận không phải như vậy! Không phải ai cũng là
anh hùng, ai cũng là gỗ đá! Trước khi là lính, họ đều là, hoặc những chàng
trai nông dân cù mì, đa cảm, hiền từ, hoặc những chàng học sinh ném lỉnh;
trước mỗi trận đánh, bản năng sinh tồn trỗi dậy, không người lính nào không
nghĩ đến cái chết; không ai không sợ chết; họ rất hiểu giá trị của cuộc sống,
hiểu nỗi đau để lại khi mình mất đi; họ lo lắng cho mẹ, cho những người thân
yêu... Nhưng bên cạnh đó, họ cũng lại là những chiến sĩ được giáo dục; có ý
thức rất rõ về trách nhiệm, nghĩa vụ... Tất cả, tất cả những tình cảm, những
tâm trạng, những nghĩ suy ấy đã trộn lại trong đầu óc họ, tạo nên một trạng
thái bồi hồi, náo nức, cùng những âu lo, phấp phỏng... thật khó diễn tả.
Rồi giờ G đã điểm, một ánh chớp bỗng nháng lên chói gắt, sáng lóa cả một
vùng; một tiếng nổ long trời lở đất, như ngàn vạn tiếng sét được bó lại đồng
loạt gầm lên; nước, đất đá dưới sông Đồng Nai được ném lên rào rào. Trong thế
bất ngờ, và trạng thái kích động bởi tiếng nổ, các mũi nhanh chóng đột ấp.
Huy cố bám theo đội hình. Lần đầu tiên vào một ấp miền Nam cũng nhiều
lạ lẫm, rất nhiều cây cối lúp xúp, Huy chỉ nhận ra được cây chuối, cây mít
quen thuộc. Bàn chân, hai ống chân bị dây thép gai và gai mắc cỡ
cào tứa máu, hai đầu gối húc vào những tảng đá nằm phục trong bóng tối sưng
vù, vậy mà Huy không cảm thấy đau đớn gì. Hình như tất cả ý thức được huy
động hết vào cái công việc cấp bách, hệ trọng, hiểm nguy, nên những cảm giác
đau đớn thông thường bị lấn át hết cả, và các đầu dây thần kinh cảm giác cũng
quên mất nhiệm vụ của mình! Đến các vị trí xung yếu: những ngã ba, đỉnh dốc,
ụ đất, lùm cây... đơn vị dàn quân; cứ một tổ ba ba, lính mới lính cũ kèm
nhau, chung một hầm. Tổ của Huy ngoài Huy ra còn có Phẩm và Dũng. Phẩm quê ở
Tiên Lữ, da đen trũi, hồi ở nhà chuyên đóng gạch, người chắc nịch như con
gấu; còn Dũng là tiểu đội trưởng, một cựu binh dân Long An, từng là du kích,
đánh nhau rất chì, nhưng rất hay chửi thề. Bọn Huy rất may là tìm được một
căn hầm rất kiên cố có sẵn của dân, nó lại được một cây mít cổ thụ lúc nào cũng
như khom lưng che chở cho. Tổ của Nhữ ở bên cạnh, cách hầm Huy vài chục mét.
Ngay sau tiếng nổ, như con thú đang ngủ say bị đánh thức bất ngờ, bọn địch đóng
ở lô cốt hai bên cầu bừng tỉnh và lập tức nã đạn. Súng đạn các cỡ thi nhau
gầm lên loạn xạ, xé không khí chiu chíu, vạch những đường đạn đỏ lừ, loằng
nhoằng đan nhau, rạch nát màn đêm. Nhưng giữa khoảng đen bao la, chúng không
thể biết đâu là mục tiêu, nên cũng chỉ bắn hú họa, và cũng không thể đổ đạn
vô tội vạ mãi được. Không gian lại trở lại im lặng, nhưng là cái im lặng đã
được kéo căng ra như sợi dây đàn, cái im lặng trước một trận động đất, một
cơn bão!
Sáng ra, như vừa ăn sáng, cà phê cà pháo đàng hoàng xong, pháo địch từ bốn hướng
bắt đầu khạc đạn. Một trận đánh nhỏ đầu chiến dịch chẳng khác gì đụng vào tổ
ong, tất cả các cụm pháo ở vùng xung quanh như Định Quán, Túc Trưng, Gia
Kiệm, cây số 125... bu lại, rót pháo như giội nước; cái ấp nhỏ rung lên bần
bật như một hòn đất bị vồ nện. Căn hầm Huy nằm bên những căn nhà lợp mái tôn,
pháo đụng nổ ngay trên mái. Tiếng pháo nổ gần rắn đanh, đinh tai nhức óc, áp
suất cao như dứt da dứt thịt, trộn với tiếng những mái tôn bị đập như trăm
ngàn phèng la cùng gầm lên ù tai, lộng óc. Những tấm tôn bị dứt xé bay lên
trời lả tả như những tàn giấy, rơi xuống xoang xoảng, xoang xoảng! Không khí
khét lẹt mùi thuốc súng trộn với mùi nhựa cây cháy, căn hầm chao đảo như một
tổ chim trước giông bão...
Pháo ngừng, bọn bộ binh lập tức tấn công. Chiếc cầu không sập, hình như do bộc
phá được điểm hỏa trong tình trạng thả trôi nên nổ không chính xác. Một bộ
phận bọn Sư đoàn 18 bên kia sông cứ từng đợt, từng đợt tràn qua cầu đánh nhau
với tiểu đoàn của Huy, hòng đoạt lại cái ấp. Qua cửa hầm, Huy nghe thấy phía
ngoài lộ tiếng xe ô tô và tiếng bọn lính hô hét, chửi thề nhộn nhạo, anh cũng
nhìn thấy thấp thoáng bọn chúng đầu cát-ket, lưng ba lô, quân phục xám xanh,
tay cầm súng, băng đạn quấn đầy mình, từ trên xe nhảy xuống. Bọn địch mà anh
đã được biết từ vô vàn thông tin thực sự là như thế ư? Biết là chúng cũng
thuộc giống người như mình nhưng anh vẫn cảm thấy có cái gì đó rất khác biệt,
cứ như một loại sinh vật nào đấy rất nguy hiểm mà bọn anh cần phải tiêu diệt
ngay, nếu không, chính chúng cũng đang hùng hổ lùng sục bọn anh để tìm diệt...
Nhưng đây chỉ là những cảm nghĩ của Huy trong trận đánh đầu tiên. Còn sau giải
phóng, khi thấy bàn thờ của gia đình bên nơi đóng quân ở Biên Hòa, để hai tấm
hình thờ hai cha con ở hai phía trận tuyến, anh đã hoàn toàn nghĩ khác. Rồi
khi chuyện với Liên ở quê gãy đổ, đem lòng yêu một người con gái Sài Gòn có
gương mặt hao hao gương mặt của Đức Mẹ, anh hoàn toàn không quan tâm đến
chuyện cô có hai chú ruột, một đại úy, một linh mục tuyên úy thuộc quân lực
VNCH. Vì nghĩ rằng, số phận của mỗi con người thật nhỏ bé, chỉ như một hạt
bụi bị cuốn đi bởi con lốc cuộc đời. Nếu anh sinh ra ở miền Nam, biết đâu
cũng có thể trở thành một người lính Ngụy! Còn trong trận chiến đầu tiên, trước
giây phút sinh tử, một mất một còn, làm sao anh có thể nghĩ một cách “nhân
văn” như vậy được, chỉ có một ý chí tiêu diệt lẫn nhau mà thôi!...
Khi bọn địch tới gần, những căn hầm quân ta ở gần lộ đã phát hỏa. Huy chỉ
nhận ra tiếng AR15 của địch nổ đanh gọn và nhanh hơn, còn tiếng AK nổ trầm
hơn và âm vang hơn, có sức uy hiếp hơn; còn tất cả là một mớ âm thanh của
B40, B41, M79, pháo, cối... hỗn loạn trộn vào nhau, chát chúa, rú rít, gầm
gào, nghiền nát sự yên tĩnh của không gian và tâm trạng con người.
Tại hầm Huy, Dũng có kinh nghiệm nên ở cửa hầm cảnh giới. Lúc này, không gì
làm những người lính mới bình tâm cho bằng khi được ở bên cạnh những bậc đàn anh
dày dạn trận mạc. Hai người chuẩn bị sẵn sàng ở dưới, được lệnh của Dũng sẽ đội
hầm đánh địch. Một toán quân địch đang lò dò tiến đến phía hầm của Huy. Tuy
rất tỉnh táo nhưng trước giây phút lần đầu giáp mặt với quân thù, với cái chết,
cơ thể những người lính mới tự nhiên run bắn lên, không sao kìm lại được, bản
năng sinh tồn mạnh hơn nhiều lần lý trí, nghe nói có người còn “tè”cả ra quần
nữa. Bọn địch đã tới tầm bắn, Dũng hét:
- Phẩm đâu, lên bắn B40 ngay!
Phẩm lóng ngóng mang B40 lên mặt hầm, nhưng cứ loay hoay mãi.
-
Bắn ngay vào tụi núp ở gốc hồng xiêm kia!
Phẩm vẫn chưa bắn mà lại gọi Huy:
- Huy ơi, lấy tao ít giẻ đút lỗ tai, mày!
Trong
tình trạng căng thẳng như vậy mà Huy còn phải bật cười, vội xé miếng vải lau
súng ngoi lên hầm đưa cho Phẩm. Đang ở dưới được đất che chở, lên trên trống
trải, Huy bỗng thấy sống lưng lạnh toát, anh chợt hiểu cái mà người ta gọi “hở
sườn” là như thế nào, và cái tâm trạng mình là mục tiêu bị ngắm bắn là
như thế nào.
Dũng
văng tục :
- Đ.má! Lẹ lên! Nó liệng cho trái lựu đạn chết ráo trọi bây giờ!
Phẩm chưa kịp bắn, còn Huy, như phản xạ tức thời sau lời giục giã của Dũng, liền
nghiến răng bóp cò khẩu AK, báng súng thụi vào vai anh, nòng giật ngược lên
trời, cả băng đạn đuổi chim cò hết! Lập tức Huy cảm thấy đầy phấn khích, mấy
tay cựu binh nói đúng thật, khi súng đã gầm lên trong tay rồi thì đếch còn sợ
gì nữa! Nhưng anh lại thấy Dũng văng tục:
- Đ,má! Bắn gì kỳ vậy? Hết đạn, rồi bắn bằng gì?
Đúng là trong tình trạng hồi hộp, bao nhiêu bài học điểm xạ “pằng pằng” hai phát
một quên béng đi mất. Nhưng có điều đặc biệt nghiêm trọng là, khi đánh phục
kích mà bắn không trúng ngay loạt đạn đầu, sẽ chẳng khác gì “lạy ông tôi ở
bụi này”! Bọn địch phát hiện ra ngay mục tiêu, lập tức bắn rát rạt, hai
luồng đạn đan chéo cánh sẻ ghìm đầu bọn Huy xuống. Tình thế thật nguy kịch,
không biết xử trí ra sao, tính mạng ngàn cân treo sợi tóc. Một suy nghĩ rất
nhanh lóe lên trong đầu Huy, không lẽ mình lại chết vô duyên ngay phút khởi
đầu thế này sao? Bao công lao sinh dưỡng của mẹ cha, bao năm tháng học hành,
bao ước mơ... rồi bao ngày tháng tập luyện kỳ công nữa, không lẽ bị cắt ngang
đơn giản thế sao? Sinh mạng con người trong chiến tranh sao quá mong manh!...
Bỗng một tiếng nổ gầm lên, súng địch im bặt, bọn Huy cũng định thần lại bắn
bồi thêm ngay, hất bọn địch xuống dưới con dốc. Lúc này Huy mới nhìn sang
phía hầm Nhữ, thấy khẩu B41 trên vai thằng bạn còn bốc khói, còn nó thì toe
toét, không biết do cười hay tại hàm răng của nó hơi bị mất trật tự nhô ra!
Mẹ kiếp! Mày chỉ chậm tí ti là tao toi rồi! Lần đầu tiên anh cũng hiểu được “chia
lửa” ở chiến trường là như thế nào, và tình đồng đội không chỉ là tình
bạn thông thường mà còn hàm chứa những ý nghĩa thiêng liêng! Phía trước mặt,
Huy thấy rõ một cái đùi của một thằng lính bị tiện đứt, mặt cắt của nó lùi
xùi gân trắng nhởn, nhớp nhúa thịt máu đỏ lòm, quần áo còn bốc cháy loang lổ.
Ngày đầu hình như địch cũng mới chỉ thăm dò, sự giành giật chốt còn chưa ác liệt.
Cả tiểu đoàn chỉ vài người bị thương nhẹ. Chiều ấy, bọn Huy ăn bữa cơm đầu
tiên trên trận địa, mỗi người được anh nuôi chia cho một nắm cơm, Huy ngồi
nhai mà thấy như miệng mình nhai rơm.
Đêm xuống, trận đánh tạm nghỉ, không biết những trận giữ chốt khác có giải
lao thế không? Chiến tranh với những người lính đã có một ngày kinh nghiệm
không còn quá bí hiểm nữa.
Sáng sau, mới tinh mơ, mắt còn cay xè sau một đêm chập chờn thức ngủ, Huy ngạc
nhiên khi thấy Nhữ đã khệ nệ bưng sang hầm anh một nồi to, toe toét:
-Tớ tóm được một con gà bị thương, nấu một nồi mì tôm đây này, cố ăn đi mấy tướng,
lấy sức mà đánh nhau!
Không hiểu mì miếc, nồi niêu xoong chảo, củi lửa nó lấy đâu ra, mà lúc này Huy
mới để ý, không biết dân ấp có được sơ tán trước không mà mấy căn nhà gần hầm
Huy không có ai cả. Huy nói với Nhữ:
-Thôi mày về hầm đi, kẻo pháo nó lại bắn đến ngay bây giờ đấy!
Quả thực, khi bọn Huy chưa ăn hết nồi mì tôm, mà miệng đắng nghét khô khốc
cũng chẳng nuốt nhiều được, pháo địch lại bắt đầu dội đến, dữ dội hơn, ác
liệt hơn ngày đầu. Cứ sau khi pháo ngừng là bọn bộ binh lại xông lên. Quân
ta, có công sự nên đánh trả quyết liệt, hắt chúng xuống dễ dàng. Những quả
B40, B41 có sức uy hiếp rất lớn, cứ nện cho một phát, có mấy thằng bị thương
vong là chúng lui ngay. Nhưng không vì thế mà trận chiến kém ác liệt. Đạn,
pháo vãi như trấu không thể không trúng mục tiêu. Một người trung đội trưởng
đã bị thương rất nặng, một mảnh pháo xuyên qua ngực, qua cả khuỷu tay anh.
Hai thằng khiêng anh về tuyến sau kể “thấy rơi ra cả một miếng gan!”, Huy
nghĩ chắc máu đông chứ gan rơi ra thì làm sao mà còn sống được! Ai cũng tưởng
anh không qua khỏi, nhưng thực tế đến nay anh vẫn còn sống. Người ta bảo
trong chiến trường có sự linh ứng ngược, người bị thương tưởng chết thì hay
sống, ngược lại, người tưởng chắc sống lại hay bị chết!
Khoảng 10 giờ trưa, thấy một đợt pháo vừa bắn tiếng có vẻ trầm hơn, Dũng liền
nói:
-Tụi nó bắn pháo khoan đó, tụi bây! Cứ khi nào tiếng đề-pa nghe gọn là nó bắn
về hướng mình đó!
Quả thực, phải kinh nghiệm như Dũng mới nhận ra được vậy, còn Huy chỉ cảm
thấy duy nhất một cảm giác y như bị nhốt bên trong một thùng phuy mà bên
ngoài có người quại búa tạ vào. Rất may căn hầm anh núp dưới cây mít to, pháo
đụng là nổ ngay trên cây, nên không việc gì. Đến khi một đợt pháo dài tưởng
vô tận vừa ngừng, bọn anh chợt thấy đại đội trưởng Bảy lù lù ở cửa hầm quát:
- Mang cuốc xẻng sang moi hầm thằng Nhữ ngay!
Giời ơi! Huy nấc lên, bật dậy. Anh Lộc y tá đã có mặt. Căn hầm bị san phẳng y
như người ta vừa bốc mộ lấp đất lại. Không lẽ dưới mặt đất câm lặng kia đang có
ba sinh mạng, lại còn có cả thằng bạn chí thiết của mình nữa! Nhữ ơi! Chúng
mày đang ra sao?!
Mọi người khẩn trương moi hầm. Đất, cát, những cây gỗ, những tấm ván lót hầm
được kéo lên. Một cái đầu, tóc đen nhẫy, nhòe nhoẹt máu trộn đất, hiện ra.
Đại trưởng kêu lên:
-
Moi mũi cho nó thở!
Mọi người nhận ra Khuê và chỉ thấy “phì” một cái rồi thôi; Khuê đã bất tỉnh, nhưng
còn thoi thóp. Sau này, vốn có tính tò mò, Huy đã hỏi Khuê là thấy thế nào
trong cái lúc bị chôn sống ấy? Không ngờ, câu trả lời của Khuê thật đơn giản:
“Không thấy gì cả”! Thì ra, cái chết đến với người trong cuộc không
kinh khủng quá như những người chứng kiến! Hai người xốc nách Khuê mang lên
đặt bên cây vú sữa để anh y tá làm những việc cấp cứu. Moi được một lúc nữa
thì tìm được Thái, người nhỏ bé, đã khá tuổi, hàm răng như nhuộm đen, quê Thái
Bình. Anh bị một mảnh pháo nhỏ xuyên qua chỗ mang tai và đã hy sinh! Còn lại
mình thằng bạn của Huy. Làm sao mày sống nổi dưới vô vàn mảnh pháo khoan như
thuốn kia? Nếu không bị thương thì cũng làm sao mà thở được? Tự dưng tay chân
Huy bủn rủn, luống cuống, nên anh được thay ngay. Rồi Nhữ cũng đã được tìm
thấy. Một cây đà đè ngang ngực làm gẫy tay và xương sườn Nhữ; máu trào ra cả
mũi và miệng; giữa trán một mảnh pháo khoan xuyên qua để lại một vết thương
chỉ nhỏ như hạt đậu, nhưng nó vẫn đủ sức giết chết Nhữ ngay! Thế là hết! Một
nỗi trống vắng mênh mông dâng ngập lòng Huy. Ý muốn được trả thù cũng cuồn
cuộn dâng lên!
Trận ấy, vì không giật đổ được cây cầu, tiểu đoàn của Huy đã phải trả giá bằng
trận đánh giữ chốt khốc liệt, các anh đã chặn địch không phải bằng việc cắt
đường giao thông mà bằng chính tính mạng của mình. Nhiệm vụ đã hoàn thành,
nhưng đơn vị thương vong gần hết. Có điều, mọi người không ngờ rằng, đi đánh
sập cầu mà lại giữ được cầu, không hoàn thành trọn vẹn nhiệm vụ nhưng lại làm
nên một chiến công ngoài dự tính! Bởi sau đó chiến dịch phát triển quá nhanh,
thế trận thay đổi, chính chiếc cầu lại làm nhiệm vụ nối liền một trục đường
tiến công của đại quân ta đánh Long Khánh, trận đánh ác liệt nhất, mở cánh
cửa máu tiến về Sài Gòn!
Sau đó, bọn Huy đã chôn Nhữ và đồng đội tại một bìa rừng. Đêm lạnh, xác mấy
người co quắp lại. Bọn Huy đã vào nhà dân lục tìm dầu nóng để bóp, nhưng
không biết lại lấy nhầm dầu 777, nên cái mùi dầu này còn ám ảnh anh mãi đến
tận hôm nay. Huy để Nhữ nằm gối đầu về phía Nam để lúc nào Nhữ cũng có thể nhìn
được về quê hương mình. Ngoài lọ penexilin để tên tuổi, Huy cũng đẽo
cho Nhữ một tấm bia gỗ.
Thế đó, với Huy, chiến trường thực sự chỉ có mấy tháng cuối cùng của cuộc
chiến như vậy, trận đánh thực sự ác liệt cũng chỉ có trận đầu tiên ấy. Nó chỉ
như một ví dụ về chiến tranh đối với cuộc đời anh, thế nhưng vẫn cho anh thấy
toàn bộ sự tàn khốc của nó, sự mong manh của tính mạng con người trước đạn bom,
sự sợ hãi của con người khi đối diện với cái chết, sự đớn đau trước những mất
mát hy sinh... và cuối cùng, nó cũng cho anh biết được thế nào là niềm vui
chiến thắng! Cái niềm vui không giống với bất cứ niềm vui nào, nó lớn lao hơn
tất thảy, cao cả hơn tất thảy, bởi nó được đổi không phải bằng bất cứ thứ bạc
vàng châu báu nào, mà bằng một thứ còn quý giá hơn vô vàn lần: đó là máu, là
chính sự sống!
***
Sau đó, hòa bình về, sau khi thi xong vào đại học, Huy mới về quê. Đó là những
khoảnh khắc hạnh phúc nhất của cuộc đời anh. Sự gặp mặt vui mừng hơn nhiều
lần sau xa cách, sự sống quý giá hơn vô vàn lần sau trải qua chết chóc, những
người lính trẻ về quê sau ngày chiến thắng vĩ đại thực sự như những người anh hùng!
Huy đã đến thăm cha Nhữ và thật ái ngại khi chứng kiến nỗi đau của người cha mất đứa
con độc nhất, nỗi đau tuyệt diệt của một dòng họ, cuồn cuộn dâng lên trong
lòng ông. Huy kể mình đã chứng kiến cái chết của con ông, đã mai táng chu đáo cho con ông. Sau đó, cuộc sống trong
hòa bình không phải chỉ có mầu hồng, mối tình với cô gái "xinh nhất làng" cũng không thành, Huy đã lấy vợ là một cô gái Sài Gòn sau khi gặp và bị "tình yêu sét đánh" trong đám cưới của một người bạn; rồi bao nhiêu điều phải lo toan về cơm, áo, gạo tiền, nuôi dạy con cái, công danh, sự nghiệp, những lần về quê
Huy ít đến thăm cha Nhữ, bởi nghĩ đã không giúp được gì thì
thôi, đến gặp chỉ gợi thêm trong lòng ông những đau khổ... Chỉ khi khá thành đạt,
suy nghĩ cũng chín chắn hơn, anh chàng định làm một điều gì đó có ý nghĩa cho
ông cụ, thì ông đã chết! Chua xót thay!
Nhữ ơi, tao đã trả ơn mày như thế đấy! Thằng bạn suốt đời chỉ biết nhường
nhịn cho bạn bè, cho đồng đội. Như bao người lính
trẻ khác, mày chưa nhận được một tí ti gì của cuộc sống, mà cuộc sống hôm nay tồn
tại được lại chính từ những cái chết của chúng mày! Chúng mày cũng như bao anh hùng liệt sĩ chính là ân nhân của đất nước này. Cái điều quá cũ mòn ấy ai
cũng biết, nhưng hành động để đáp trả thì không phải ai cũng nghĩ đến, những người có trọng trách không phải bao giờ cũng làm đúng. Bây
giờ, tao đã vác trên mình một khuôn mặt mà nhiều người lam lũ ở quê cho là thành đạt. Sự thành đạt quyến rũ lắm,
mày không biết đâu, nhưng để có nó cũng khó khăn lắm, nên nhiều người đã vì
nó mà phải trả mọi giá, kể cả lương tâm mình! Thằng bạn của mày, tuy chưa
đánh mất lương tâm, nhưng từ lâu có phải tao cũng đã là một kẻ vô tâm, một kẻ ích kỷ rồi không?
Bình Thạnh
Ngày giỗ thứ chín của cha
13-5(âm lịch)1999
Sửa chút ít 22-12-2008
|