Hồi mới viết văn,
cảm hứng trong tôi luôn dâng trào, nhìn một cô gái hàng xóm tưới cây
kiểng trên ban công là có thể làm ngay được bài
thơ.
Nghe một câu nói cũng có
thể viết ngay được một truyện ngắn. Đó chính là câu nói của nhà văn Vũ Ân
Thy. Số là năm 1986, tôi có dự cuộc thi truyện ngắn do Hội Nhà
văn thành phố HCM tổ chức. Tôi gởi ngay cái truyện “Lễ
tưởng niệm" thì được đăng trên báo Tuổi
trẻ. Rồi được anh Vũ Ân Thy, chắc có trong ban tổ chức, mời gặp và nói là “rất thích”. Vì thế mới có dịp đến nhà anh chơi, gặp đứa bé
con anh, anh bảo khi sinh, nó mắc bệnh rất hiếm ở Việt Nam, phải thay máu hoàn
toàn mới sống. Thế là tôi về tìm hiểu cái bệnh đó, rồi viết ngay thành cái
truyện “Hoa mua tím” này.
Thế là, trong một
hoàn cảnh cực kỳ éo le, tôi đã buộc phải gặp lại Mua. Tôi đã luôn cố gắng để
điều ấy không xảy ra, nhưng định mệnh tò mò lại cứ cố tình muốn như thế còn
biết làm sao được.
Câu đầu tiên Mua nói:
- Thì ra lại là anh.
Tôi chỉ kịp nhận ra
một chút ngạc nhiên trong ánh mắt, ngoài ra không thấy một tín hiệu gì trong
câu nói ngắn ngủi ấy. Vì ngượng nghịu vô cùng, tôi chỉ trả lời Mua bằng những
tiếng lắp bắp:
- Trời Mua! May quá…
được gặp Mua… may… cho Thảo quá!
- Thôi nha, chúng ta
sẽ nói chuyện sau, thời gian bây giờ cần kíp dữ lắm!
Nói rồi, Mua vượt
lên, nhanh chóng vào phòng cấp cứu. Tôi thẫn thờ, như bị một cái tát nẩy lửa
vào mặt. Vì không hiểu nổi thái độ của Mua nên nỗi băn khoăn cứ xoắn chặt lấy
trí não tôi.
Một lát sau Mua trở
ra nói:
- Tôi không hiều sao
anh lại để Thảo đến tình trạng như vầy. Nếu Thảo được bác sĩ theo dõi từ
những tháng trước thì đâu đến nỗi… Bây giờ tôi phải nói thực cho anh biết,
tình trạng của Thảo rất nguy kịch. Có những triệu chứng lạ, phải đợi kết quả
thử máu mới xác định chính xác được. Còn ngay bây giờ thì phải mổ. Có thể
cháu bé sẽ không qua được. Nhưng nếu không mổ thì chính tính mạng của Thảo
cũng sẽ bị đe dọa…
Tôi choáng váng.
Không ngờ tình trạng lại nguy cấp đến như thế!
Mua nói tiếp:
- Đây là trường hợp
đặc biệt, tôi sẽ báo cáo với bác sĩ giám đốc để chỉ cho ý kiến chỉ
đạo. Anh cứ yên tâm. Tôi sẽ trực tiếp mổ cho Thảo.
Tôi vô cùng sửng
sốt. Không ngờ cô y tá hiền từ, nhẫn nại trong rừng ngày nào lại có thể tự
tin đến thế trước một công việc vô cùng khó khăn, có ảnh hưởng sống còn đến
sinh mệnh của hai con người. Nhưng lúc này tôi đâu biết được, chỉ sau sáu năm
ra trường, khi tôi còn chưa làm được trò trống gì, thì với cái bằng đỏ và sự
dày dạn ở chiến trường, Mua đã trở thành người trợ lý số một của nữ giáo sư
giám đốc bệnh viện; và tôi cũng đâu biết được, trong một tạp chí y học, tác
giả của công trình dùng một loài hoa làm thuốc giúp cho sanh đẻ bớt đau, cũng
chính là Mua cùng với nữ giáo sư.
Sau đó, kíp mổ đã
hội chẩn. Mua đề nghị kiểm tra yếu tố Rhésus
trong máu Thảo. Và, điều dự đoán của Mua là đúng sự thật: máu của Thảo âm tính!
Thực ra lúc đầu tôi
chưa biết tầm quan trọng của vấn đề, nhưng khi hiểu, tôi vô cùng hoảng sợ và
thất vọng. Nếu máu người mẹ không có yếu tố Rhésus mà đứa con trong bụng lại mang yếu tố Rhésus của cha, nó sẽ trở thành một vật lạ trong cơ thể người mẹ;
cơ thể người mẹ sẽ dần dần sinh ra kháng thể để đấy nó ra ngoài, bất kỳ giai
đoạn nào! Trường hợp này ở nước ta rất hãn hữu. Không lẽ vợ tôi lại rơi đúng
vào trường hợp này sao?! Trời ơi, mà sao tính mạng của cả vợ con tôi lại nằm
trong tay người bác sĩ có cái tên là Mua ấy? Người con gái đã từng bị tôi phụ
bạc, từng bị tôi chê là ngu khi chọn cái nghề phụ sản. Tôi biết, nếu Mua muốn
trả thù tôi thì lúc này sẽ là một cơ hội thuận lợi nhất. Nhưng tôi biết người
con gái ấy lắm. Người con gái ấy sẽ dư thừa lòng vị tha để cứu chữa vợ con
tôi hết mình. Nhưng biết đâu được, khi nỗi đau bị phụ bạc, bị mất mát quá lớn
và lòng tự trọng của con người ta bị xúc phạm quá thô bạo! Trời ơi, Thảo ơi!
Liệu em và con có qua được không?
***
- Người ta nói mầu
tím là mầu thủy chung đấy. Mà Mua thấy không, những cánh hoa mỏng manh này
lại có mầu tím thật nền nã.
Có một chiều, trên
một sườn đồi, tôi đã ngắt một nhành hoa mua và nói với người con gái ấy như
thế.
Hồi ấy tôi còn trẻ
lắm. Đầu năm 74, tôi vào chiến trường và được chọn làm đồ bản (vẽ bản đồ) cho
phòng tác chiến quân khu miền Đông Nam Bộ. Độ sau vài tháng ở rừng chiến khu
Đ đầy muỗi, tôi đã bị sốt rét kịch liệt. Sau những tháng đằng đẵng ở bệnh xá
của quân khu bộ, tôi đã dần dần khỏi bệnh, nhưng cơ thể hoàn toàn bị tàn tạ.
Lần thứ hai trong đời, tôi lại tập lần, tập bò như những đứa trẻ. Chính trong
những ngày tháng này tôi đã quen thân với một người con gái có tên là Mua. Có
lẽ, nếu không có những mũi tiêm, những gô
cháo và những lần miệt mài dìu tôi tập đi của cô y tá ấy thì tôi sẽ không đủ
nghị lực để trở lại cuộc sống khỏe mạnh bình thường. Ở giữa một quân khu bộ
nghiêm nghị, già nua như vậy, việc chúng tôi quen thân nhau là một điều dễ
hiểu.
Mua vốn gốc gác Sài
Gòn, là người con út của một cán bộ Đảng hoạt động bên Miên. Ba má đã sinh
Mua ngay tại đất Miên. Nhưng lúc này, cả hai ông bà đã hy sinh. Mua khoảng
18, 19, kém tôi độ 1, 2 tuổi. Năm tháng chiến trường đầy gian khổ vẫn không
làm sạm được nước da trắng ngần của cô gái đang độ rực rỡ nhất. Mua thường
mặc những áo bà ba sậm mầu, nên nước da càng được tôn lên. Khuôn mặt Mua
không có những nét đặc sắc, nhưng lại có một sự kết hợp hài hòa, luôn toát
lên một vẻ duyên dáng hiền dịu. Ở chỗ dưới đầu mắt phải của Mua có một vết
chàm nhỏ và mờ, trông như một giọt nước mắt, làm cho đôi mắt ấy có nét buồn
buồn và trông Mua có dáng một người nhẫn nại chịu đựng. Còn tôi, với cái mác sinh viên dở dang và tài vẽ bản
đồ, gần như đã là thần tượng của Mua. Khi tôi ra viện, thỉnh thoảng chúng tôi
vẫn sang nhau chơi. Mỗi lần nhìn Mua nhanh nhẹn trên con đường mòn, in bóng
trên nền rừng xanh thẫm, ngập nắng, tôi cảm thấy Mua như hiện lên từ một câu
chuyện cổ tích. Trong những đêm rừng lạnh, người con trai hai mươi tuổi là
tôi đã trằn trọc không ít về hình bóng người con gái ấy; và, sức mạnh của một
cơ thể trẻ trung đã làm dậy lên trong tôi những nỗi khát khao…
Đến một buổi chiều,
tôi đã xin một ông trung tá dạy cho một câu tiếng Miên hỏi quê quán để nói
với Mua cho vui. Tôi đâu có ngờ là ông trung tá đã trêu mình. Ông đã dậy câu:
"On xơ lanh boòng tê?" nghĩa là "Em có yêu anh không?"
mà tôi không biết. Lòng hí hửng, tôi sang bệnh xá gặp Mua. Mua lại không có
nhà. Tôi thất vọng, nhưng nhớ ngay đến một chỗ bên bờ suối có rất nhiều cây
dâu da mà Mua hay đến đó hái, liền lần theo một con đường mòn tới đó. Tới
nơi, tôi cũng không thấy Mua, nhưng lại thấy đâu như từ dưới suối vẳng
lên những tiếng bì bõm. Men xuống gần bờ, tôi thấy một cô gái đang đầm mình
dưới làn nước trong vắt bên những tảng đá. Bộ quần áo sũng nước để bên cạnh.
Tôi nhận ra Mua. Tất cả những ánh mắt như vô thức bị hút về phía cơ thể chắc
lẳn mịn nuột của người con gái. Rồi, khi tự nhận ra mình là một kẻ nhìn trộm,
tôi nhẹ nhàng lùi lên, ngồi đợi Mua.
Giặt giũ, mặc đồ
xong, Mua về, đi ngang qua chỗ tôi ngồi mà vẫn không biết. Tôi liền lấy một
hòn sỏi nhỏ ném về hướng Mua. Mua giật mình:
- Há! Trời ơi, anh
Hiếu! Anh làm em hết hồn à! Làm chi mà lại ngồi đây một mình vậy anh?
- Tôi ngồi đợi Mua -
khi thấy hai má Mua bừng đỏ, sợ Mua nghĩ tôi đã nhìn trộm Mua tắm, vội nói: -
Tôi đến bệnh xá mà không gặp Mua. Tôi ra đây, thấy Mua đang giặt, nên ngồi
đợi.
Mua vắt quần áo ướt
lên một cành cây, rồi ngồi xuống cạnh tôi:
- Sao lâu không thấy
anh qua chơi?
- Dạo này tôi bận
lắm, phải vẽ nhiều. Hình như sắp đánh lớn rồi Mua. Cán bộ dưới các đơn vị lên
họp đông lắm. Điệu này chả mấy mà giải phóng.
- Sau này hòa bình anh
sẽ học nghề họa sĩ chứ?
- Tôi cũng chưa biết
nữa. Có lẽ tôi sẽ về lại trường cũ. Thế còn Mua?
- Mua sẽ học bổ túc
để lấy cái bằng tú tài trước đã. Rồi tất nhiên sẽ thi vào trường y thôi.
- Nói chung trường y
là nhiều người mơ ước. Riêng tôi, tôi lại không thích một tẹo nào. Theo nó là
một đời phải gắn bó với bệnh tật, với đau đớn, ghê chết đi được!
- Anh nói vậy chớ,
nếu quen thì không có chi sợ hết á! Hơn nữa, mình đã thương người bịnh thì
đâu có ngại ngùng chi nữa!
- Thôi, thôi, tôi
chịu Mua đó! – Tôi chợt nhớ đến câu tiếng Miên mà ông trung tá đã dạy, liền
nói: - À Mua này, tôi biết nói tiếng Miên rồi đấy nhá.
Mua ngạc nhiên, vội
hỏi tôi bằng một giọng có vẻ thách thức, song cũng chứa đựng sự thích thú:
- Anh thử nói một
câu xem!
- On xơ lanh boòng
tê?
Tôi ngạc nhiên khi
thấy hai má Mua bỗng bừng đỏ, hai mắt long lanh xúc động. Chưa bao giờ tôi
thấy Mua lại đẹp và dễ thương đến như thế. Và, tôi còn ngạc nhiên hơn nữa khi
thấy Mua gục đầu vào vai mình. Có một cái gì đó bỗng trào dâng mãnh liệt
trong tôi, khiến tôi khẽ nâng má Mua lên, rồi rụt rè hôn lên đôi môi mọng đỏ
của Mua:
- Mua ơi! Chúng mình
sẽ yêu nhau thật nhiều. Sau này hòa bình, chúng mình sẽ cưới nhau. Em biết
không? Anh yêu em nhất trên dời này!
Rồi chúng tôi lại
hôn nhau. Cả khu rừng bạt ngàn bỗng chốc như lặng đi, chỉ còn lại tiếng nô
đùa của những con sóng nhỏ bên bờ suối. Hai bàn tay tôi cứ bám riết, lần tìm
trên cơ thể mịn màng, mát rượi của người con gái ấy, và người con gái ấy đã
nhiều chuộng tôi biết bao!...
Rồi hòa bình về, cả
hai chúng tôi đều thực hiện được mơ ước của mình. Tôi vào Tổng hợp văn còn
Mua vào Y khoa. Về thành phố quê hương, ba má không còn nên Mua cũng ở khu
ký-túc-xá như chúng tôi. Mua học rất chăm và rất giỏi. Còn tôi, học hành cũng
không đến nỗi nào, nhưng công việc học tập rất ít gây được hứng thú với tôi.
Hình như chương trình giảng dạy văn chương còn thiếu một cái gì đó khiến nó
khô khan. Chuẩn mực văn chương của một thời mà mơ ước của đa số con người chỉ
là sự no đủ, còn nhiều khiếm khuyết. Người ta còn dạy nội dung nhiều hơn nghệ
thuật. Phạm vi của lý luận văn chương được đề cập còn hạn hẹp.
Có một phong trào
sáng tác văn chương trong số những người bộ đội trở lại trường học. Vì cùng ở
chung ký-túc-xá, họ đua nhau. Không chỉ ở khoa Văn, mà còn ở cả khoa Sử, khoa
Chính trị… thậm chí cả các khoa tự nhiên nữa. Tôi học văn không thể không có
trong số đó. Thế mới biết chuyện viết văn mới dễ làm sao, nhưng để thành công
thì lại thật khó. Có khi nó không chỉ phụ thuộc vào tài năng mà còn do cái
“số” nữa.
Nhưng có một điều,
tình cảm trong tôi dần dần thay đổi thật lạ. Từ ngày về thành phố, choáng
ngợp trước vẻ đẹp thướt tha của những tà áo dài trắng muốt, vẻ trẻ trung,
tràn đầy nhựa sống của những thân hình thon thả tròn đầy, chật căng trong
những chiếc áo pull rộng cổ; những nét thiên thần của cô y tá quân giái phóng
ngày nào đối với tôi không còn nữa. Tôi nhận thấy, hình như do gùi tải nặng
nhiều, chân tay và vai Mua có thô hơn những cô gái phố xá. Khuôn mặt Mua
không có “nét”, không có đôi mắt to đen mơ mộng, không có chiếc mũi cao thanh
tú, không có đôi môi trái tim chín mọng hấp dẫn… Càng ngày, tình yêu thần
tiên nơi cánh rừng ngày nào càng trượt nhanh về ranh giới của tình bạn. Nhưng
với Mua thì hoàn toàn ngược lại. Tôi biết Mua đã không còn coi tôi là một
người yêu nữa mà gần như là một người chồng. Mua rất hứng thú làm các món ăn
ngon để gọi tôi sang ăn. Nhiều khi quần áo tôi thay ra, làm biếng chưa chịu
giặt, Mua cũng mang đi giặt ủi.
Cho đến một hôm,
thời kỳ tôi đang học năm thứ ba, tôi vào phòng Mua thì được gặp một cô gái.
Mua giới thiệu với tôi:
- Đây là Thảo, em
nhỏ bạn cùng lớp em, đang học năm thứ hai trường sư phạm. Cũng khoa văn cùng
nghề với anh đó.
Tôi hoàn toàn sửng
sốt trước vẻ đẹp đài các và có nét gì đó thánh thiện của cô gái. Đó là vẻ đẹp
khiến người ta trân trọng, nâng niu nhiều hơn sự ham muốn phàm tục. Dù rằng
cái cơ thể thanh xuân ấy cũng được bọc trong chiếc áo pull dài tay ôm sát và
chiếc quần jean mầu xanh đậm. Tôi choáng ngợp khi nhìn vào đôi mắt to đen của
Thảo và nhận thấy có vẻ gì đó rất khó nói. Sau thì hiểu là do mắt Thảo lé
kim, lé một tí ti thôi, đủ làm nên cái duyên mà nhiều cô gái ao ước. Quả thực
với Thảo, tạo hóa đã không keo kiệt mà hào phóng ban phát cho tất cả những
nét có thể tạo cảm hứng cho bất kỳ chàng họa sĩ nào theo trường phái phục
hưng khó tính nhất.
- Còn đây là anh
Hiếu, tác giả những bài thơ mà Thảo đã đọc đó.
Thảo nhìn tôi, chỉ
hơi gật đầu. Hai má có thoa phớt một chút phấn ửng đỏ. Không hiểu sao, tất cả
những vẻ linh hoạt ngày thường của tôi đã không cánh mà bay đi hết. Lần đầu
tiên, tôi hiểu được quyền lực của sắc đẹp, và thấy mình mới yếu đuối làm sao,
nhợt nhạt làm sao! Liệu tôi có phải là một người mắc bệnh háo sắc không? Mà
trên đời này, có một người đàn ông bình thường nào thực sự không háo sắc?
Ngay cả Chúa Jê-su, trước khi thành Đấng Cứu Thế, thành cha của thời gian,
cũng từng có một tình yêu… Bằng sự nhạy cảm của một cô gái, không muốn tôi ở
trạng thái lúng túng lâu, Thảo cáo từ ra về. Trong tôi bỗng trào lên một cảm
giác tiếc nuối như vừa để vuột mất một cái gì đó rất quý giá, rất thiêng
liêng. Tôi không còn chút hứng thú nào để ở lại ăn cơm với Mua nữa. Tôi đã
bịa ra một lý do, rồi thơ thẩn trở về phòng mình. Lúc này, anh chàng nghệ sĩ
trong tôi bắt đầu trỗi dậy, buộc tôi phải cầm bút viết ra những cảm xúc mới
lạ của mình.
Tôi ao ước có một
dịp nào đấy trao được bài thơ tận tay nhân vật của nó. Nhưng đợi hoài, đợi
hoài, không thấy Thảo trở lại ký-tuc-xá. Hỏi Mua địa chỉ Thảo thì tôi không
dám. Mà có biết chưa chắc tôi đã dám mò đến. Bởi muốn thì rất muốn, nhưng lại
còn sĩ diện, còn tự ái, sợ người ta không tiếp, bẽ mặt. Rồi thời gian trôi
đi, lòng tôi cũng dần nguôi đi gió bão.
Một hôm, tôi nhận
được thư của bố tôi, lại chuyện giục lấy vợ: “Thày hiện đang nằm viện đợi cắt dạ dầy. Hiếu ạ, thày mẹ đã già rồi,
lại ốm đau luôn, không biết sống chết lúc nào. Nên con phải thu xếp xây dựng
gia đình ngay đi. Nếu không, có khi thầy mẹ nhắm mắt xuôi tay rồi mà còn chưa
được thấy mặt đứa cháu nội…”. Tôi băn khoăn. Đang học hành lại cưới vợ
thật bất tiện. Nhưng tôi không thể khất lần mãi được nữa. Tôi nghĩ đến Mua,
thầm an ủi: “Cho dù là tình yêu hay cái
gì đi chăng nữa cũng tương đối thôi”. Nhưng thật oái oăm, tôi và Mua lại
mới giận nhau. Khi Mua chọn chuyên khoa Phụ sản mà tôi thấy thật không thơ
mộng chút nào, nên đã cáu, nói Mua là ngu, bao nhiêu công việc sang trọng
không chọn lại đi chọn cái nghề đỡ đẻ! Lần đầu tiên Mua thực sự giận tôi. Kể
lúc chưa giận nhau thì việc ngỏ lời của tôi chẳng khó khăn gì, nhưng lúc này
tôi ngại. Tôi vốn hiếu thắng, không chịu “thua” ai bao giờ. Thôi, viết vài
dòng là hay nhất. Nghĩ thế, tôi liền lấy giấy bút, hí húi viết:
Em thân yêu!
Anh vừa nhận được thư nhà. Anh rất lo là bố bị cắt dạ dầy.
Ông già muốn anh xây dựng gia đình ngay. Bố mẹ cũng đã già rồi. Riêng anh,
anh cũng muốn như thế. Anh cũng đã đợi em quá lâu rồi phải không Mua?
Anh
Hiếu
Đến chiều, nhét lá
thư vào túi, tôi dũng cảm bước vào phòng Mua. Nhưng thật bất ngờ, tôi không
gặp Mua mà lại gặp Thảo. Thảo đang đọc một tờ báo. Tim tôi tự nhiên đập loạn
lên. Tất cả những nỗi xúc động từ trong sâu thẳm của lãng quên chợt dồn dập
xô về. Tôi chợt hiểu, trái tim bất kham của tôi chỉ có thể bị chế ngự bởi
người con gái này, bởi cái sắc đẹp mà tôi cảm thấy không bao giờ với tới này.
Tôi lúng túng như gà mắc tóc. Khi thấy tôi, Thảo kêu lên, bằng một giọng tự
nhiên của một người không hề có chút tình ý gì:
- A, anh Hiếu! Mời
nhà văn vô nhà chơi. Chị Mua đi tắm. Một lát là chỉ về liền hà.
Lòng đầy thất vọng,
tôi bước vào, kéo ghế ngồi đối diện với Thảo và nhận ra được tờ báo Thảo đang
đọc chính là tờ có đăng truyện ngắn đầu tay của tôi. Thảo đã lấy trên giá
sách của Mua.
- Anh Hiếu viết
truyện hay dữ. Đọc chỉ khó vô lúc đầu, đoạn kết trí tuệ lắm.
- Thảo quá khen, chứ
tôi mới tập viết đấy mà.
Tuy nói vậy nhưng
trong lòng tôi vẫn ngầm có một sự đắc ý và trào lên một niềm vui. Trong
khoảnh khắc, tất cả những dự định của tôi với Mua đã biến mất. Tôi nhớ đến
bài thơ viết tặng Thảo ngày nào, rồi mạnh dạn:
- Tôi có thể làm một
bài thơ tặng Thảo được không?
- Vậy thì hay quá.
Thảo rất mừng khi có được một diễm phúc bất ngờ như thế.
Tôi liền chép lại
bài thơ cũ, nhưng lại giả vờ nhăn trán suy nghĩ theo kiểu các thiên tài “xuất khẩu thành chương” để gây ấn
tượng đối với người đẹp:
Như là gặp em ở mãi trong mơ
Ơi cô gái xinh đẹp và xa lạ!
Em sát bên mà xa xôi quá!
Ta như đôi bờ giữa là biển-vô-tư
Chép xong tôi đưa
cho Thảo. Thảo reo lên:
- Úi da! Anh Hiếu
tài quá há! Làm chút xíu là xong bài thơ hà! Mà thơ của anh đọc dễ thương quá
đi!
Tôi thấy mặt Thảo
bừng đỏ khi xem bài thơ. Bộ ngực phập phồng dưới làn áo mút-xơ-lin màu huyết
dụ có in những bông hồng lớn. Lúc đó, Mua khệ nệ bưng thau quần áo đầy về.
Thảo cất ngay bài thơ vào túi xách. Phơi xong, Mua vào phòng ngạc nhiên khi
thấy tôi, nhưng rồi trấn tĩnh lại ngay, giữ một thái độ như là chưa hề có một
sự giận dỗi:
- Sao, hai anh em
đợi tôi có lâu không? – nói rồi Mua quay sang Thảo: - Chị còn ký đậu xanh,
mình nấu chè ăn nghe Thảo?
Thảo đòi về, sợ trời
tối. Cuối cùng, nói qua nói lại mấy câu, Thảo chịu ở lại. Nấu nướng, ăn uống
xì xụp xong, thoáng chốc đã 9 giờ tối. Vì nhà Thảo ở mãi quận 3, nhiều đoạn
phố lại tối, con gái về một mình không tiện, nên thời cơ ngàn năm có một đã
đến với tôi: Tôi đã được người đẹp đồng ý cho đưa về nhà. Và, trước đó, tôi
cũng đã bí mật xì hơi làm xẹp bánh xe Thảo!
Lòng vui như hội,
trên con đường Ngô Gia Tự có chan hòa ánh trăng trộn lẫn ánh điện, tôi đạp xe
chầm chậm. Phía sau, Thảo ý tứ ngồi xích ra một khoảng ngắn. Tôi bỗng muốn
con đường sẽ dài ra vô tận. Mỗi khi đi hết một dãy phố, tôi lại có một tâm
trạng tiếc nuối như là một kẻ nghèo khó tiếc của khi thấy số tiền eo hẹp của
mình vơi đi quá nhanh. Đến đường 3-2, bỗng Thảo ngập ngừng hỏi:
- Không biết anh
Hiếu đưa Thảo về như vầy chị Mua có buồn không ha?
Tôi vội chống chế:
- Không có đâu, tôi
và Mua không có gì đâu. Trước kia chúng tôi cùng đơn vị đấy mà!
Tôi muốn phân bua,
muốn nói chuyện thật nhiều với Thảo, nhưng tôi cảm thấy mình ngô nghê thế nào
ấy. Chẳng mấy chốc chúng tôi đã tới trước ngôi biệt thự hai tầng lầu nhà
Thảo. Tôi cảm thấy rất rõ sự sang trọng được ất giữ cẩn thận sau những rèm
cửa của ngôi nhà ấy. Tôi ấp úng nói với Thảo:
- Từ nay Thảo sẽ đến
ký-túc-xá nhiều nha! Đừng ngại xa, tôi sẽ đưa Thảo về.
- Thảo chỉ ngại
phiền anh thôi.
- Với tôi, được đưa
Thảo về là một diễm phúc, làm sao lại có chuyện phiền hà được.
Những ngày sau đó
đầu óc tôi lung mung. Tôi đã không do dự xé đi bức thư định gửi cho Mua. Và,
không đợi nổi Thảo đến ký-túc-xá, tôi đã tự tìm đến nhà Thảo. Từng là một đứa
trẻ lớn lên ở vùng quê nghèo. 17 tuổi đi bộ đội ở trong rừng biết bao gian
khổ, về thành phố đi học ở ký-túc-xá sinh viên, tôi thực sự choáng ngợp trước
cảnh sống sang trọng ở ngôi nhà đó. Trước giải phóng, ba Thảo vốn là một ông
chủ một nhà máy hóa chất mà. “Chà, nếu
lấy được Thảo mình sẽ có tất cả! Cả tình yêu, cả sang giầu, trên đời mấy ai
được như thế?”. Tôi đã hình dung ra cảnh dẫn Thảo đến chơi với lũ bạn,
chứng kiến những ánh mắt thèm muốn, ghen tỵ của chúng, mà lòng đầy kiêu hãnh…
Với tất cả những động cơ ấy, tôi đã hạ quyết tâm, bằng bất kỳ giá nào cũng
phải chinh phục được Thảo. Quyết tâm thì nhiều, nhưng hy vọng chẳng được bao
nhiêu. Nhưng cuộc đời, có những cái người ta tưởng có thể nắm chắc trong tay,
thì lại không đạt được gì, trái lại, có những cái, ta tưởng nằm rất xa ngoài
tầm tay ta, nó lại đến với ta bất ngờ, như là quà tặng của may mắn, của Tạo
hóa. Tôi đã gặp may như vậy. Sinh ra, lớn lên trong nhung lụa, con người ta
không coi trọng lắm ý nghĩa, giá trị của vật chất, người ta coi đó như là một
sự hiển nhiên. Thảo là một cô gái mơ mộng, thích văn chương. Trong Thảo, tôi
đã là một “tài năng đầy hứa hẹn”.
Cùng cái mẽ cao to: 1m7; 60kg, khuôn mặt vuông, góc cạnh, đầy nam tính, nhưng
đôi mắt luôn phủ một màn sương suy tư, mơ màng của một thi sĩ lớn, tôi đã nhanh chóng chiếm được tình yêu của Thảo
không mấy khó khăn. Còn ba Thảo, một ông già rất chiều con, ông cũng muốn gia
đình có một chàng rể là dân cách mạng, nên cũng dễ dàng chấp thuận. Tôi đã
bịa ra một lý do, nếu đã xây dựng gia đình, sau này ra trường sẽ dễ được phân
công ở Sài Gòn hơn, nên chúng tôi đã vội vàng cưới nhau. Tôi đã phân bua với
Mua là, vì gia đình thúc ép, tôi không thể chờ Mua học xong trường Y dài đằng
đẵng được. Tôi biết Mua buồn lắm. Tôi cũng rất thương Mua, vì không có lý do
gì để ghét cả. Nhưng biết làm sao? Trong ngày cưới, Mua đã tận tình chăm lo
cho Thảo như một người chị gái. Còn người chị Thảo đã theo chồng định cư bên
Mỹ. Tôi cũng được biết, Thảo còn có một ông anh là trung úy chế độ cũ đang
học tập cải tạo. Trong đám cưới, vợ ông anh đang dạy học ở Mỹ Tho đã mang con
về dự.
Giai đoạn đầu, tôi
và Thảo sống rất hạnh phúc. Vợ chồng tôi được chọn một căn phòng rộng ở trên
lầu, sang trọng tiện nghi. Mỗi lần nằm ngửa trên những chiếc nệm bọc simini
mầu nâu đậm, phẳng căng lót trên chiếc ghế dài của bộ sa-lông, ngắm nhìn bốn
bức tường được ốp gỗ đánh vec-ni màu cánh kiến; những tấm rèm cửa trong suốt,
mỏng như cánh chuồn; những bức tượng, bản sao những kiệt tác điêu khắc của
thế giới bằng đồng, bằng đá trắng, đá đen… được đặt trên những khoang trống
của chiếc giá sách đồ sộ, không biết bằng gỗ gì mà đen nhẫy… Rồi đến những
bữa ăn thường nhật lịch sự, kiểu cách, đều đều như những bữa tiệc nhỏ… Tất
cả, tất cả luôn vượt lên trên rất xa sự hình dung ban đầu của tôi về sự sang
trọng. Mà quả thật, đời tôi chưa từng được hưởng sự sang trọng, nên không
biết mặt mũi nó ra sao thật? Từ cái chốn ký-túc-xá chật chội, bề bộn, thiếu
thốn, bước đến cái thiên đường này, sống bên người vợ tuyệt đẹp, hiểu biết,
tôi luôn thầm nhủ là, mình đang sống ở cõi mơ, chứ không phải cõi thực. Chính
vì tôi không đủ sức tạo dựng, cũng như không thể chế ngự được nó, nên tôi
luôn có cái cảm giác là hạnh phúc này rất mong manh, dễ vỡ.
Đúng như linh cảm,
một thời gian sau, khi mãn hạn cải tạo, ông anh Thảo trở về. Tất nhiên, người
ta không thể quý mến một người đã góp phần đẩy người ta vào trại cải tạo, một
người từng là kẻ thù, dù bây giờ đã là em rể. Tôi đã nói với ông anh vợ là: “Chúng ta chỉ là những hạt cát bị cuốn đi
trong cuộc đời, ai ở đâu thì phải theo đấy thôi, còn những chuyện chính trị
là chuyện của mấy ông lớn. Vậy chúng ta nên chỉ coi nhau như những người
trong gia đình bình thường”. Tuy thế, hai người vẫn thường tránh những
cuộc nói chuyện tay đôi. Mọi chuyện bắt đầu xáo trộn lung tung cả. Ông anh
Thảo đã kéo ngay vợ con ở Mỹ Tho về, bỏ nghề dạy học, mở ngay quán cà phê ở
khoảng sân trước phòng khách. Thế là cuộc sống của tôi ở ngôi nhà đó không
còn yên tĩnh nữa. Là một thằng hay tự ái, dần dần tôi rất ngượng khi nhận ra
mình như một kẻ ăn bám trong nhà Thảo. Dù tiếc cay tiếc đắng căn phòng sang
trọng, tôi vẫn nói Thảo về khu tập thể ở bằng được. Cũng may, tôi đã ra
trường, đã xin được làm một chân phóng viên văn nghệ tại một tờ báo thành phố
và được phân chỗ ở. Và tại đây, tại một căn phòng tối tăm chật hẹp, xung
quanh lúc nào cũng ồn ã tiếng trẻ con nghịch ngợm, phá phách, tiếng quát
mắng, đánh đập của những ông bố, bà mẹ, tiếng cãi nhau, thụi nhau huỳnh huỵch
của đôi vợ chồng sát vách… Lối sống tiểu thư của Thảo bắt đầu xung khắc với
lối sống dân dã lính tráng của tôi. Thảo không bao giờ ăn một món ăn nếu
không ướp đủ gia vị và nấu đúng kiểu, dù chỉ là việc kho con cá cơm bằng đầu
đũa. Tôi buồn. Nhưng tôi biết Thảo không xấu. Thảo sinh ra như thế, Thảo có
cách sống như thế. Lắm lúc tôi thở dài, kể Thảo có thêm được những đức tính
của Mua nữa thì thật hoàn hảo. Tuy vậy, mỗi khi chở Thảo đến bạn bè chơi bằng
chiếc xe máy bóng nhoáng của ba vợ, tôi vẫn ngầm kiêu hãnh với bạn bè: “Mình vừa có tài, lấy được vợ vừa giầu vừa
sang, hơn đứt bọn bay đi chứ!”. Tôi luôn thấy mình đủ sức mạnh để không
cần đến ai, và không bao giờ tôi biết ân hận về lối sống vô trách nhiệm của
mình. Còn Mua, vì ngại, tôi luôn tránh mặt. Nào ngờ…
***
Sau mấy tiếng đồng
hồ mà tôi thấy dài như hàng thế kỷ, ca mổ được thực hiện xong. Mua cho tôi
biết:
- Ca mổ tốt. Thảo có
mệt nhưng rồi sẽ hồi phục. Còn cháu bé thì khó qua khỏi. Nó là con trai, được
có một ký tám. Ngày nay, người ta đã cứu được những trường hợp đẻ non hơn,
nhưng đứa trẻ phải khỏe. Còn đứa nhỏ nhà anh thì… Nhưng thôi, chúng tôi sẽ
ráng, còn nước còn tát.
- Thế … bây giờ… tôi
có thể gặp Thảo và cháu được không?
- Anh có thể được
gặp cháu ở phòng dưỡng nhi. Còn Thảo đang ở phòng hậu phẫu, có lẽ anh chưa
nên vô.
Nói rồi, Thảo dẫn
tôi vào phòng dưỡng nhi. Tôi bàng hoàng khi thấy một đứa bé như một con mèo
ướt nhăn nheo nằm trong lồng kính. Đứa con trong mộng của vợ chồng tôi là như
thế sao?
Một thời gian sau,
khi trong phòng chỉ còn tôi với thằng bé, tôi vô cùng hốt hoảng khi thấy da
nó bỗng tái tím, chân tay co giật. Tôi chạy vội đến phòng trực báo cho Mua.
Mua đến ngay xem xét.
- Tình hình rất nguy
kịch – Mua nói – Đây chính là hậu quả của việc máu Thảo không có yếu tố Rhésus. Bây giờ phải thay ngay máu
hoàn toàn cho nó. Nếu không, máu nó sẽ bị ngưng kết và sẽ chết.
Công việc được triển
khai ngay. Còn tôi thì như bị sét đánh. Lảo đảo ngồi xuống hàng ghế ngoài
hành lang, tôi bỗng thấy trong bụng nhói đau. Tôi biết là mình đã bị đau dạ
dầy, nhất là những lúc thần kinh lại quá căng thẳng như thế!
Tôi cũng không biết
sau bao lâu, việc thay máu được thực hiện xong. Một cô y tá dìu Mua trở về
phòng bác sĩ. Xong, cô ra nói Mua mời tôi vào.
Tôi ngại ngùng bước
vào phòng. Mua nằm trên chiếc giường, vẻ mệt mỏi, da tái, trên chiếc bàn nhỏ
có một cốc nước chanh đường. Mua nói, nhưng là bằng cái giọng thân thiết ngày
xưa:
- Cháu bé sẽ qua
khỏi anh à, cả Thảo cũng vậy. Nhưng anh sẽ phải cực nhiều đấy. Thật tội
nghiệp!
Tôi kéo nhẹ ghế ngồi
cạnh Mua, rồi ấp úng nói:
- Tôi biết cảm ơn
Mua thế nào bây giờ. Mua ơi! Hãy tha lỗi…
- Thôi đi anh! Chẳng
phải chúng ta vẫn luôn là bạn tốt của nhau đó thôi.
- Mua ơi! Nếu sau
này thằng bé qua khỏi, Mua hãy là người mẹ thứ hai…
Nói đến đó, tự dưng
tôi không thể tiếp được nữa. Âm thanh như mắc nghẹn trong cổ họng. Tôi biết,
dù tôi có đểu cáng, có vô ơn đối với Mua một lần nữa, thì đứa con tôi vẫn là
đứa con của Mua, bởi chính Mua đã hồi sinh cho nó. Và, phải chăng dòng máu
đang căng đầy trong huyết quản nó kia, tràn đầy trong buồng tim nó kia, chính
là dòng máu chảy từ chính trái tim Mua?
TPHCM 1983
|