Chuyện về hai người
(Truyện ngắn)
Truyện này chính là truyện ngắn đầu tay của tôi, viết lúc
hai mấy tuổi mà cứ như mới hôm qua vậy, vẫn còn nóng hổi tính thời sự. Sau
khi gặp nhà thơ Anh Thơ, chỉ một thời gian ngắn tôi không chỉ làm thơ mà còn
viết văn, viết phê bình, tất cả cứ diễn ra một cách rất tự nhiên. Viết xong “Chuyện về hai người” gởi đăng, tôi
không ngờ nó được đăng ngay trên Văn nghệ TP HCM, rồi còn được đọc cùng lúc
trên Đài TPHCM và Đài Tiếng nói VN, rồi sau một thời gian nó cũng được đăng
trên báo Văn nghệ TW. Hồi ấy nhà thơ Anh Thơ xuất bản tập Hồi ký “Từ bến Sông
Thương” bị bà bạn là Bùi Bội Tỉnh “đánh”, thế là tôi đã ra tay cứu bà, và đó
cũng chính là bài phê bình đầu tiên của tôi. Khi bài đó được đăng, cô Anh Thơ
nể tôi lắm mới nói: “Bây giờ thì chỉ có ông Chế Lan Viên là làm thầy cháu
được thôi”. Và chính vì thế mới có chuyện tôi được gặp Nhà thơ CLV. Lần đầu
tôi mang một chùm thơ và cái truyện ngắn đầu tay đó cùng lá thư của cô Anh
Thơ viết cho nhà văn Vũ Thị Thường giới thiệu tôi lên nhà. Gặp tôi, sau khi
đọc xong thư của cô Anh Thơ, bà VTT hỏi:
-Làm nghề gì?
-Cháu làm nghiên cứu ở một viện dược.
-Thế thì tốt quá rồi, văn với veo làm cái gì, các con tôi
tôi cũng cho chúng học y hết. Thôi được rồi đưa cái truyện đây tôi xem thử -
Nói rồi bà đi lấy cái bút chì, xong bà nói tiếp: - Có gì tôi sửa ngay nhé.
Rồi bà đọc, tôi thấy bà có vẻ bị cuốn vào câu chuyện, tay
cầm cái bút chì mà bà không sửa gì hết. Đọc xong, bà bảo: “Viết được đấy!”.
Chớp thời cơ, tôi nhờ bà đưa thơ tôi cho CLV đọc, bà bảo “Nhà tôi bận lắm, để
tôi coi cho”. Xem xong tiếc là bà lại bảo tôi không biết làm thơ. Còn tôi thì
vốn rất tự tin, tôi tin là CLV đọc thơ tôi, nếu ông đúng thông minh như mọi
người tôn vinh thì ông nhất định sẽ thích. Quả đúng vậy, sau mấy tháng “phục
kích”, trong một cuộc thi thơ mà CLV chấm chung khảo, tôi đã nhờ bà VTT đưa
thơ của tôi cho ông, và lần đầu tiên đọc thơ tôi, ông đã trao giải ngay tại
nhà ông. Và chính từ lúc đó tôi mới có ý thức nghiêm túc về chuyện viết lách
của mình.
Năm 1981, khi chúng tôi vừa bảo vệ
xong luận văn tốt nghiệp, có một bà phó tiến sĩ sang trường tuyển người để
thành lập một phòng nghiên cứu của một viện dược.
Bà khoảng 45 tuổi, người tầm thước, mặt rất “tây”, nói chung là còn đẹp tuy đã đậm người. Bà chọn được bảy đứa, năm trai, hai gái, tất nhiên là có tôi; vì nếu không, sẽ không có chuyện này. Chọn được chúng tôi, bà mừng lắm. Mãi về sau, khi đã tan đàn xẻ nghé, bà vẫn còn tự hào về đội tuyển của bà: “Chưa bao giờ tôi thấy lại có một ê-kíp tuyệt vời như thế!”
Về viện, ban đầu chúng tôi như sống
trong mơ. Tuy cùng lớp, cùng lứa có coi nhau không ra gì, có ganh tỵ, kèn cựa
nhau, nhưng rất vui. Tuần liên hoan phòng một lần. Chúng tôi còn tuồn một ít
trí tuệ về làm thêm, nước thuốc nhuộm vàng cả khoảng sân rộng của khu tập
thể. Điệu này chả mấy mà vừa có tiền, vừa có chuyên môn nghề nghiệp phát
triển, rồi có khi lại nên công danh sự nghiệp nữa cũng nên. Chúng tôi đều
nghĩ như thế. Người ta cũng nghĩ về chúng tôi như thế.
Nhưng không ngờ… Lần đầu tiên tôi
hiểu được thế nào là “Trâu bò húc nhau ruồi muỗi chết”. Không chỉ hiểu như
hiểu một thành ngữ của một ngôn ngữ mà hiểu với tư cách bị “dính đòn”.
***
Đó chính là câu chuyện về hai người.
Chuyện ông viện trưởng và ông viện phó “đánh nhau”. Nhưng nói cho đúng hơn
thì là việc ông viện phó “đánh” ông viện trưởng, ông viện trưởng không thèm
chấp, thế là bị thua. Chúng tôi là lính phe ông viện trưởng nên bị vạ lây.
Riêng mình tôi là trường hợp đặc biệt, có một không hai, thì bị nặng hơn.
Ông viện trưởng là ông Huấn, ngày ấy
58 tuổi, người cao gầy như cây sậy. Mặt xương, mắt sâu, mũi cao, miệng nhỏ,
cằm dài, lưng hơi khòng, tay dài… Nói chung là dáng của một “con mọt sách”,
một người làm việc bằng trí tuệ cao sâu. Ông là một trong những đầu đàn của
ngành. Ông từng làm giám đốc xí nghiệp dược đầu tiên của nước ta, xí nghiệp
số 1. Ông viện phó, ông Đức, người sau này hạ ông nốc-ao, cũng ở đó. Nhưng
chỉ có một địa vị khá khiêm tốn, là một nhân viên phòng tài vụ. Một thời, thế
của ông viện trưởng khá mạnh. Ông có tài, có uy tín, và đặc biệt, có ông chú
là bộ trưởng. Tôi cũng không biết chú cháu thế nào, vì ông họ Vũ, ông bộ
trưởng họ Nguyễn. Ông luôn được giao những công việc mũi nhọn của ngành. Ngay
hồi chiến tranh, nước ta chưa có quan hệ rộng với các nước phương tây, nhưng
ông đã từng “Bước chân tôi đã giẫm nát đất Pháp” – Một lần ông đã nói thế.
Còn ông viện phó thì học qua loa, kiếm được cái bằng kinh tế, rồi đi B. Nhưng
không phải đánh đấm như người ta, mà ở tuyến sau, cũng trong ngành dược. Hồi
trong rừng, ông có quen thân với một nhân vật quan trọng, bởi sau này ông ta
sẽ làm thứ trưởng, là một chỗ dựa quan trọng cho ông. Như vậy, thế lực của
hai bên tương đối cân bằng. Một ông nhiều tài, có chú là bộ trưởng; một ông
ít tài nhưng lại có công đi B, có đàn anh là thứ trưởng. Về sức khoẻ thì hai
ông có vẻ ngang nhau, ông viện trưởng bị đau dạ dầy kinh niên, ông phó
thì bị nhồi máu cơ tim. Nhưng chú cháu ông viện trưởng có một bất lợi là tuổi
tác nhiều hơn bên kia.
Trước đây, viện chúng tôi là một xí
nghiệp dược lớn, gồm một số hãng bào chế trước giải phóng gộp lại. Ông Đức
làm giám đốc. Ông thực sự là vua một xứ. Làm sao ông không là vua được khi
một lúc tiếp quản rồi cai quản một lô những cơ sở vật chất đầy giá trị, gồm
những phòng thí nghiệm hiện đại, tiện nghi, những công xưởng máy móc tiên
tiến và biết bao nguyên liệu dược đắt tiền. Ông giám đốc chọn một biệt thự
sang trọng 2 tầng lầu, nhà của ông chủ cũ, khuôn viên có hòn non bộ, có bể
bơi, và trồng một loại cỏ không biết cỏ gì mà cứ mịn như nhung. Rồi ông phân
phát bổng lộc cho thần dân: Nhà cửa, chức vụ, lương bổng… Đã có một triều
đình nhỏ được thiết lập ở nơi đây. Tôi từng tưởng chỉ có nơi này mới như thế.
Nhưng sau này, khi chuyển đến một vài cơ quan khác, tôi cũng lại gặp như vậy.
Ở đó, cũng có những ông vua con, có quyền ban phát và sinh sát. Khi có quyền,
họ đã coi cơ quan nhà nước là của nhà mình. Liệu có phải, còn có một điều gì
đó chưa hoàn thiện đã tạo đất sống cho những con người này, những người đã
chung sức làm cản bước tiến của xã hội, gieo tai ương cho những lương dân.
Nhưng rồi cơ quan của nhà nước thì
phải là của nhà nước. Bộ đã quyết định thành lập một viện nghiên cứu trên cơ
sở xí nghiệp của ông vua Đức, dù ông có muốn hay không. Một viện có nhiệm vụ
chuyển những công trình nghiên cứu thành những quy trình công nghệ, có thể
sản xuất được những nguyên liệu dược mà nước ta gần như vẫn phải nhập hoàn
toàn. Đây là một tham vọng vô cùng lớn và đúng đắn của lãnh đạo Bộ Y tế. Bởi
một đất nước phát triển không thể là một đất nước cứ mãi giống như một xí
nghiệp khổng lồ chuyên gia công nguyên liệu cho nước ngoài. Ông Đức thì không
có một sợi tri thức dược nào, nên không tài nào làm lãnh đạo một viện quan
trọng và to như thế được. Ông chuyển xuống làm phó, phụ trách phần sản xuất
vẫn được giữ lại của viện. Ông Huấn được chọn làm viện trưởng. Thế là quân và
tướng ngày xưa gặp lại nhau. Nhưng ông lính ngày xưa giờ đã thành phó tướng.
Dù đã tiến bộ vượt bậc so với thuở ấy nhưng ông hoàn toàn không thỏa mãn vì
đang là vua. Ngày ngày, người lái
xe phải đưa rước hai ông đi làm bằng chiếc xe con nên người ta nói hai ông này đội chung xe nhưng không đội
chung trời. Và vì thế mà chiến
tranh đã xảy ra.
Là người từng trải, ông viện trưởng
rất biết ông viện phó hoàn toàn không chấp nhận sự thay đổi này, nhưng ông
không quan tâm lắm. Ông có quá nhiều việc phải làm, những công việc đòi hỏi
toàn bộ tâm sức người ta, trí tuệ người ta… Nhưng ông đâu biết, một con rận
cũng có thể làm khó chịu cho một con sư tử; một con kiến khi chui được vào
tai một con voi cũng có thể làm nên chuyện; mà ông viện phó thì lại hoàn toàn
không phải là một con rận, một con kiến. Ông ít tài giành cho ông việc nghiên
cứu nhưng lại nhiều mưu.
Ban đầu, chúng tôi được ông viện
trưởng giao cho một số công việc. Một nhóm tổng hợp Methyl salycilat (một thành phần trong dầu nóng); một nhóm làm
Niketamid (thuốc tim mạch); một nhóm chiết xuất Berberin (một hoạt chất làm thuốc đường tiêu hóa) từ dược liệu là
cây vàng đắng. Tôi ở nhóm chiết
xuất này. Tất cả công việc được bà trưởng phòng còn xinh đẹp chỉ huy trực tiếp. Chúng tôi gọi bà là cô hàm nghĩa teacher. Bà từng học đại học ở Liên Xô, làm phó tiến sĩ ở Đức. Bà
luôn nói, bà có học nhiều hơn, có kinh nghiệm nhiều hơn, nhưng không thông
minh bằng chúng tôi. Tôi biết bà chân thành. Bởi muốn chân thành, người ta
cần có một sự thông minh mà bà cũng là một người thông minh. Và có mất gì đâu
khi nói lên một sự thật để được việc.
Công việc chiết xuất Berberin trong
tài liệu thường dùng cồn. Bà trưởng phòng muốn cải tiến dùng nước acid loãng.
Tất nhiên dùng nước acid loãng sẽ tiện, sẽ rẻ hơn cồn rất nhiều, nhưng nó lại
làm cho nhựa cây ra theo, làm hoạt chất không kết tinh được. Nếu được, sản
phẩm cũng chỉ là một thứ bột chỉ để một thời gian ngắn là bị oxy hóa, đen
xỉn. Cả viện trưởng, cả trưởng phòng đều khuyến khích chúng tôi đưa ra cách
giải quyết. Chúng tôi được dịp thi thố tài năng, lấy lòng cấp trên. Mà trong
lĩnh vực này thì không thể mánh được.
Tôi nhớ đến việc nấu đường ở quê tôi, người ta thường dùng vôi để loại chất
bẩn. Mà chất bẩn đó phần nhiều là nhựa cây, ở một pH nhất định chúng sẽ bị
keo tụ. Suy nghĩ của tôi đã được kiểm chứng và được áp dụng. Và thế là tôi
được cấp trên tín nhiệm, được tin yêu, và cũng chính vì thế mà có người ghét.
Cuộc đời luôn có hai mặt. Cũng như tài năng của một con người có khi lại là
nguyên nhân của những nguy cơ.
Ông viện trưởng, sau khi bị cắt dạ
dày tí chết, kỳ này lại khá khỏe mạnh. Ông thường đi Đồng Nai, bàn bạc việc
triển khai xây dựng một nhà máy sản xuất tinh bột dược dụng từ củ sắn (khoai
mì). Đây là một công trình đơn giản về khoa học, chỉ có một số vấn đề về công
nghệ cần phải giải quyết cho phù hợp với khả năng của một viện mới thành lập.
Ông muốn tác phẩm đầu tiên của viện phải thành công.
Lúc này tôi thấy ở viện bắt đầu có
những tiếng xầm xì. Chị phục vụ ở phòng thí nghiệm nói:
- Chú biết hông? Công nhân ở đây người ta thù ông viện trưởng lắm đó. Ổng về
đây thành lập viện nghiên cứu nghiên kiếc gì để rồi công nhân sẽ mất việc
làm. Sao không để họ ở đây yên ổn với ông Đức có phải hay hông?
- Họ nói buồn cười. Chuyện này là do
bộ quyết định chứ do gì ông viện trưởng? Với lại viện này vẫn sản xuất bình
thường chứ có chuyện gì đâu.
- Người ta còn nói trong bữa liên
hoan bữa trước, ổng lấy mấy ký thịt, bắt chú gì giữ mộc đó mang về nhà. Ổng
cũng lấy đồ của cơ quan về xài nhiều lắm. Nói đến đây, chị ghé sát tai tôi
thầm thì, vẻ quan trọng: - Người ta còn nói ổng cặp bồ với cô trưởng phòng
mình nữa đó.
Thật bậy bạ, toàn những điều bịa đặt!
Mấy ký thịt không là gì nhưng có thể làm vấy bẩn danh dự của một con người,
hạ nhục một con người. Ai nghĩ ra được trò này thật nham hiểm. Vì mải làm
việc, chúng tôi đã không nhận ra sự đối xử bất công thuộc lĩnh vực ông viện
phó phụ trách. Phòng làm việc của chúng tôi thua xa những phòng hành chính,
nghiệp vụ. Phòng ở tại khu tập thể thì thua xa công nhân. Nghe nói, ông Đức
còn bí mật sang trường trả chúng tôi lại nữa. Tôi ngạc nhiên lắm. Một lần,
khi gặp khó khăn trong việc lĩnh dụng cụ hay hóa chất thí nghiệm gì đó, tôi
đã cáu mà nói với bà trưởng phòng cung tiêu: “Chúng tôi phải làm những công việc mà các bà có tạo điều kiện thuận
lợi cho cũng chưa chắc làm tốt được, huống hồ lại cản trở”.
Ông viện trưởng thì vẫn bình chân như
vại.
Cái hôm đáng nhớ ấy, vừa ở Đồng Nai
về, ông đã triệu tập một cuộc họp với phòng chúng tôi, bàn về đề tài Berberin.
Ông nói:
- Người ta cứ bảo rừng của ta là
vàng, nhưng ta chưa khai thác đúng đắn cái vàng ấy. Thiên nhiên đã ưu đãi
chúng ta mà chúng ta lại không có ý thức bảo tồn thì thật lãng phí, thật tai
hại. Trong Nam
này thuận lợi là có cây vàng đắng mọc
tập trung, Sông Bé có, Tây Ninh cũng có. Tôi muốn chúng ta phải làm việc từ
cơ sở khoa học, không thể làm việc theo kiểu mò mẫm được. Chúng ta phải đưa
ra được một quy trình chiết xuất tối ưu nhất. Có như thế mới không lãng phí.
Tôi đại diện cho nhóm nghiên cứu phát
biểu:
- Berberin
là một dẫn xuất của Quinolin, có
nhóm Dioxymethylene nên là một hợp
chất phân cực. Chúng ta dùng nước acid loãng để chiết là rất phù hợp. Nhưng
ta phải tách được nhựa ra khỏi dịch chiết. Trong việc này chỉ có dùng vôi là
hay nhất, nó vừa tạo ra được môi trường kiềm, vừa là chất hấp phụ tạp chất
rất tốt.
Sau đó mọi người sôi nổi trình bày
những vấn đề liên quan đến công việc. Viện trưởng mừng lắm:
-Tôi hơi bất ngờ, khi chỉ một thời
gian ngắn mà anh chị em đã làm được một khối lượng lớn công việc. Một điều
quan trọng và rất quý nữa là, các anh chị đã hiểu rất sâu công việc, rất biết
việc. Trong công việc nghiên cứu, cái việc tìm ra hướng đi mới quan trọng.
Bởi chúng ta là những người hướng đạo, nhiệm vụ của chúng ta là chỉ dẫn cho
người khác thực hiện chứ không phải là người thực hiện. Có điều chúng ta phải
tính đến sự khác nhau khi tiến hành quy trình ở quy mô phòng thí nghiệm với
khi thực hiện sản xuất ở quy mô lớn.
Có ai ngờ rằng, đây chính là câu nói
cuối cùng của ông về công việc với chúng tôi với tư cách Viện trưởng. Bởi khi
họp xong thì ông nhận được một điều vô cùng bất ngờ, đó là cái quyết định về
hưu. Nghe đâu đã có một bản tố cáo ông gồm 10 điểm gửi lên bộ. Tôi không quan
tâm lắm chuyện 10 điểm ấy là gì, bởi ai cũng biết đó là một sự bịa đặt. Tôi
biết thực chất có một nguyên nhân khác khiến ông phải về hưu. Đó là việc ông
chú ông, ông bộ trưởng, cũng đã về hưu. Có những sự việc, vỏ ngoài có vẻ rất
phức tạp, nhưng cái cốt lõi thì lại vô cùng đơn giản.
Chiều ấy, tôi xuống nhà ông. Ông cũng
ở một căn hộ trong khu tập thể như chúng tôi, tuy có rộng rãi, tiện nghi hơn.
Hai ông bà ở cùng với người con thứ hai, bộ đội mới phục viên, đang kiếm việc
làm. Tôi bước vào phòng thấy hai ông bà đang ăn cơm. Tôi thấy rất rõ những
nét đau đớn trên khuôn mặt ông. Cái kết quả ban chiều như một lưỡi dao tàn
bạo đã khắc sâu thêm những nếp nhăn vốn đã dầy, đã chi chít trên đấy. Tôi
bỗng cảm thấy mình thật vô duyên. Ông đang cần một sự yên tĩnh. Ông đã phải
chịu một nỗi đau quá lớn, nỗi đau khi bất ngờ bị dứt ra khỏi những gì ông yêu
quý nhất, những gì mà cả cuộc đời ông đã gắn bó, đã hy sinh. Ông như một
người mẹ đột nhiên bị dứt khỏi tay đứa con thơ đang cần sự chăm sóc của mình.
Với ông, công việc là tất cả, công việc không đơn thuần là công việc mà như
một sứ mệnh, là cả một sự nghiệp. Ông luôn làm việc cần cù như một nông dân
và say mê như một nghệ sĩ.
Thấy tôi, ông buông đũa, nói tôi ra
ngoài ban-công uống nước. Ban-công khá rộng, có kê bộ sa-lon bằng mây, tán
mấy cây mận trồng dưới sân xòa vào. Ông pha nước, tay run run. Tôi thấy mí
mắt ông dầy lên. Cả hai chúng tôi đều thấy khó bắt đầu câu chuyện. Cuối cùng
ông đã mở lời:
- Khi làm lớn các cậu nên cẩn thận,
nhiều thông số sẽ khác đi đấy. Cả khâu tinh chế cũng rất quan trọng, phải cố
gắng làm được sản phẩm đạt tiêu chuẩn dược dụng.
- Bọn cháu cũng chán bác ạ. Không còn
hứng thú để làm việc nữa.
- Cuộc đời là thế đấy. Nhưng các cậu
còn trẻ, phải ráng mà làm việc. Với tôi, chỉ có công việc mới có ý nghĩa, còn
lại mọi thứ đều phù phiếm cả. Có hai loại người, một loại sống vì công việc,
bị công việc nó cuốn vào. Cậu thấy đấy, làm được việc gì đó cho tử tế có phải
dễ dàng đâu. Còn một loại thì không có chuyên môn gì, sống không vì công việc
gì. Vì thế, họ không có một niềm say mê nào cả, nhưng lại lắm tham vọng.
Không có khả năng mà lại tham vọng, tất sẽ sinh thủ đoạn, sẽ hại người thôi.
Tiếc là bọn này lại thành đạt khá nhiều trong cuộc đời. Đó chính là những
người có quyền có chức nhưng lại làm việc bằng đầu óc người khác. Vì lợi ích
cá nhân, họ sẵn sàng làm mọi chuyện…
- Mọi người đều thấy vừa rồi ông Đức
đã làm nhiều chuyện mờ ám, không lẽ trên đồng tình với cái sai sao?
- Cuộc đời có nhiều cái tế nhị lắm,
các cậu còn trẻ chưa biết hết đâu. Thực ra vừa qua tôi cũng sai, chỉ biết chú
tâm vào công việc mà không đề phòng. Tôi chỉ muốn tạo ra những quy trình tối
ưu, từ người nghiên cứu, người phục vụ đến người sản xuất, rồi sẽ hiểu nhau.
Không ngờ, họ lại sợ chính những quy trình ấy đào thải họ. Mà chuyện này thực
ra cũng không phải chỉ là chuyện cái ghế đâu. Từ khi viện được thành lập,
nhiều chuyện làm ăn mờ ám phải đình lại…
***
Như tôi đã nói, cơ quan nhà nước thì
phải là của nhà nước. Ông viện phó không có chuyên môn nên không thể muốn làm
gì thì làm, không thể lên viện trưởng được. Bộ cử ông An xuống. Ông An thì
“hiền” hơn, lại thuộc diện “đàn em” ông viện trưởng cũ. Tuy chúng tôi không
được ưu đãi, nhưng công việc đòi hỏi phải có chúng tôi, nên không sao cả, dù
cũng có khổ.
Ông An về được ít hôm thì tổ chức một
cuộc họp với các cán bộ nghiên cứu. Chúng tôi tập trung ở hội trường. Khi
chiếc xe con dừng lại trước phòng họp, cửa vừa mở thì mọi người vô cùng ngạc
nhiên: Ngồi cạnh ông An là ông viện trưởng cũ.
Chúng tôi mừng lắm, như một chuyến đi
xa được gặp lại người thân.
Cuộc họp bắt đầu, Ông An trình bày
chiến lược phát triển của ngành, nhiệm vụ của viện. Ông trân trọng mời ông
viện trưởng cũ tiếp tục làm cố vấn khoa học cho viện. Với ông viện trưởng cũ
như thế là quá đủ. Ông phát biểu cảm ơn và trình bày những ý kiến về hướng
nghiên cứu của viện. Chúng tôi đang lắng nghe thì thấy bên ngoài bỗng có
tiếng ồn ào. Tôi nhìn ra thấy cửa phòng ông viện phó xúm lại rất nhiều người.
Mọi người trong phòng ùa ra. Tôi len lên thì thấy mặt ông ấy xám ngắt, như
chuẩn bị ngất. Ông ấy vốn bị nhồi máu cơ tim mà. Chiếc xe con lập tức được nổ
máy. Khi mấy chị phòng y tế dìu ông ra xe, ông thều thào:
- Không… tôi không… Tôi không… hại…
Cánh cửa xe đóng lại. Chiếc xe lao
vút về hướng bệnh viện Thống Nhất.
***
Tối ấy tôi mừng lắm. Tôi lại xuống
nhà ông viện trưởng cũ. Hôm nay ông cũng vui. Chúng tôi lại ngồi nói chuyện
với nhau ở bộ sa-lon mây ngoài hiên. Ông nói:
- Cậu biết không? Người ta nghiên cứu
cả cơ chế cái vươn vai và cái ngáp đấy. Thực ra đó là những phản ứng mà cơ
thể chống lại sự mệt mỏi của cơ thể.
Hôm nay tôi không thích nghe những
loại chuyện như vậy của ông. Tôi hỏi:
- Sao ông Đức đang khỏe mạnh lại bị
bệnh đột ngột thế bác?
Ông không trả lời tôi mà nói:
- Cậu ạ, không phải quan trọng là
người ta đã được, đã mất cái gì. Những cái được mất mang tính chụp giật ấy.
Chúng không bền. Mà quan trọng hơn là người ta có cái gì. Có thể có những bất
công, những không may, nhưng khả năng của mỗi người thế nào rồi cũng sẽ được
thể hiện, sẽ được khẳng định, rồi cũng sẽ được công nhận thôi. Miễn là người
ta phải có ý chí. Chẳng thể che đậy cũng chẳng thể thổi phồng chuyện gì mãi
được đâu. Thời gian là quan tòa nghiêm khắc lắm…
Sau đó, cả phòng chúng tôi đi thực
tập ở nước ngoài hết, công việc đòi hỏi như vậy. Tôi cũng có trong danh sách
nhưng không được đi vì có viết một truyện ngắn “Chuyện về hai người”. Như tôi đã nói, thế lực của ông viện phó
vẫn rất mạnh vì có một ông thứ trưởng đỡ đầu. Ai cũng nói với tôi, công nhận
tôi tốt thật nhưng ngu, vì có ai lại đi bênh một ông về hưu chống lại người
đang nắm đầu mình bao giờ. Nhưng phải đến tận lúc ông An nghỉ, một bà đàn em
ông viện phó lên viện trưởng, chị ruột bà này cũng lên thứ trưởng, tôi mới bị
dính đòn, bị nốc-ao hoàn toàn.
Phòng tôi sau này rồi cũng tan tác hết. Bà trưởng phòng khi chạy sang trường Tổng hợp cứ áy náy:
- Tôi có lỗi với các em. Thật tiếc!
Các em thực sự là những tài năng.
TPHCM 1983
|