Thứ Hai, 26 tháng 8, 2013

VỚI GS TRẦN ĐÌNH SỬ


ĐÔNG LA
VỚI GS TRẦN ĐÌNH SỬ

Trong cái việc viết lách, tôi có những mối quan hệ tinh khiết, bởi chúng được nảy sinh trên những giá trị cao quý của văn chương, hoàn toàn không vương một chút “bụi trần”. Chúng vượt qua ranh giới của tuổi tác, vị trí và danh tiếng. Như với nhà thơ Chế Lan Viên, tôi thật bất ngờ sau khi đọc những bài thơ đầu tay của tôi bảo “được giải đấy”, ông đã lập cập vào buồng bê ra một chồng bản thảo khoe cách làm thơ của ông với tôi. Nghĩa là ông đã coi tôi như một người bạn, dù ông là một tên tuổi lừng danh và hơn tôi đến 35 tuổi! Một sự bất ngờ khác là Nguyễn Quang Thiều khi chủ trì làm tờ Văn nghệ Trẻ, tôi là một trong những người góp bài đầu tiên, một lần Thiều gọi báo: “Ông Trần Đình Sử thích cái bài ông viết về Siêu thực đấy”. tôi cũng rất bất ngờ vì hồi ấy Trần Đình Sử đã là Giáo sư, Trưởng khoa ở ĐHSP HN, là nhà phê bình lý luận hàng đầu, còn tôi mới chỉ là “cây viết trẻ”, nhất là trong lĩnh vực phê bình. 
Sau đó, một lần ra Hà Nội, với sự sắp xếp của bạn bè, tôi đã gặp ông, còn cùng nhau bia bọt ở một quán ngoài trời nào đó mà tôi không rành ngoài HN nên không nhớ. Một người bạn cũng một lần chở tôi đến tận nhà thăm ông. Thấy trên tường, ông treo bức tranh chữ (NHẪN). Ông giải thích, chữ Tàu là chữ tượng hình nên chữ NHẪN chính là bộ đao đè trên chữ TÂM. Tôi cũng hiểu, đơn giản là vì hồi phổ thông tôi có học tiếng Tàu; năm lớp 9 trong một cuộc thi, tôi còn đoạt giải “kiện tướng nhớ từ” của trường cấp III Thanh Miện nữa. Tôi cũng nhớ cô giáo là Đức, cô bảo tên cô là: Chim chích mà đậu cành tre/ Thập trên tứ dưới nhất đè chữ tâm:  ”.
Một lần vào TP HCM công tác, ở một khách sạn gần Trần Hưng Đạo, ông đã gọi tôi đến uống cà phê, ông bảo: “Tôi có mấy chục học trò là tiến sĩ nhưng không ai viết bằng anh”.
Từ khi có internet, bài vở được đăng dễ dàng hơn, không hạn chế giấy tờ nên ý tưởng cũng được trình bầy kỹ càng hơn, vì thế tôi cũng viết và được đăng khá nhiều trên Talawas, Vanchuongviet, phiên bản cũ của trang web Hội Nhà văn VN... Đến khi có blog thì muốn viết gì thì viết. Một lần nữa tôi lại ngạc nhiên về Trần Đình Sử vì ông có đọc các bài của tôi trên mạng. Với lớp trên dưới 70 như ông có rất ít người đọc mạng, không thèm biết internet là gì. Trần Đình Sử không vậy, ông đọc và còn sưu tập các bài tôi viết. Một lần ông gọi điện nói để lạc đâu mất cái bài tôi viết về Đỗ Hoàng Diệu nên ông bảo tôi gởi cho ông. Ông nói các bài phê bình lý luận của tôi rất có giá trị sao không gởi báo viết để cho nhiều người cần đọc được đọc, mà lại chỉ đăng trên mạng? Tôi bảo trước khi đăng trên mạng tôi từng gởi tất cả cho báo Văn nghệ, nhưng chỉ được đăng vài lần thôi (Bài về Lê Đạt và Nguyễn Khải) nên sau này không gởi nữa. Dường như giới hạn của báo giấy và cả tầm của biên tập viên nữa là quá chật hẹp so với tư duy của tôi. Rất may là có blog nên nhiều bài của tôi đã đến được với bạn đọc. Trước đây khi uống cà phê chỗ Trần Hưng Đạo, ông bảo có mấy chục học trò là tiến sĩ nhưng không ai bằng tôi, thì lần này ông nói toạc ra là: “Tôi rất khâm phục anh”. Có thể nhiều người cho là tôi xạo, có điều Trần Đình Sử không chỉ “lời nói gió bay” mà ông còn không chỉ một lần viết thư nói lên tình cảm của mình dành cho tôi. Tuy là thư riêng nhưng nói về văn chương, tức là về cái chung, nên tôi có thể công bố được:
Tran Dinh Su <dinhsutran@yahoo.com> (6/6/09) to me:
Thân gửi anh Đông La,
Tôi rất vui mừng vì sau bao chuyện bất công mà anh vẫn viết và đăng trên báo mạng. Đọc anh tôi thấy thái độ làm việc nghiêm túc, có tinh thần phê phán khoa học, không hùa theo cảm tính. Mong anh khoẻ và viết được nhiều bài hay. Sự thành công sẽ đánh bạt những định kiến, phe phái tầm thường. Rất thân ái”.
Tran Dinh Su <dinhsutran@yahoo.com>  8/22/09 to me
Thân gửi anh Đông La,
Tôi đã đọc nhiều bài của anh và rất có cảm tình về một lối làm việc nghiêm túc, phân tích sắc sảo, có chủ kiến. Tôi cũng thích một số bài phản biện của anh về phương diện khoa học tự nhiên, đó là lĩnh vực mà tôi mù tịt.
Về một số nhà văn, nhà thơ thích dùng tri thức khoa học tự nhiên, là vùng sở đoản của họ để lập luận, theo tôi nên có cách ứng xử hợp lí, hợp tình. Một mặt có thể dọn vườn để các vị ấy tự thấy cái nhầm của mình mà tự sửa, bạn đọc cũng nhìn thấy mà cảnh gíác, không tin theo cái nhầm ấy…
 Tôi rất quý mến Đông La, yêu bài viết của Đông La, chỉ muốn đóng góp một ý kiến nhỏ, mong được lắng nghe như bạn bè đồng nghiệp. Rất thân mến. Trần Đình Sử”.
Một người viết, có gì mừng hơn khi có một mối quan hệ và nhận được những lá thư như thế. Vì thế cái tên Trần Đình Sử trong tôi luôn là một niềm vui, một sự ấm áp!
Trong mối quan hệ này thực ra ông là người chủ động. Nếu là một kẻ kiêu ngạo tầm thường, tôi sẽ đắc chí mà coi thường người khác, nhưng thực lòng tôi luôn kính trọng ông. Bởi chỉ có một tư duy khoa học, một sự thông thái, người ta mới có thể nhìn xuyên qua được lớp vỏ bọc hư danh mà người đời thêu dệt nên, để nhận ra khả năng đích thực của người khác cũng như bản chất đích thực của các vấn đề.
Vậy mà gần đây tôi té ngửa khi Trần Đình Sử, một người tôi luôn quý trọng, một nhà khoa học nhân văn, với bức tranh chữ (NHẪN) được treo trang trọng trên tường nhà, tôi tưởng ông sẽ có cái nhìn minh triết về cuộc đời, để có thể hiểu sâu sắc về lịch sử của đất nước này, hiểu hạn chế của dân tộc này, hiểu được những giá trị quý giá mà chúng ta đang có được bằng một cách đầy nhọc nhằn; ánh sáng của tư duy ông có thể nhìn xa, xuyên qua được những tăm tối vây quanh mình; nhưng không, ông lại có tên trong danh sách 72 người đòi thay Hiến Pháp, bỏ Điều 4, đòi tách quân đội ra khỏi sự lãnh đạo của Đảng v.v… Ông cũng có tên trong danh sách gửi thư cho CT Nguyễn Minh Triết bênh vực Phương Uyên; và gần đây nhất, ông cũng bênh vực Nhã Thuyên!
Về chuyện “lật pháp” là chuyện quá lớn, là chuyện chính trị mà với một GS chỉ chuyên sâu nghiên cứu phê bình lý luận văn học như ông, có những quan điểm không đúng cũng có thể thông cảm. Nhưng những việc cụ thể như 2 vụ Phương Uyên và Nhã Thuyên thì thật khó.
Phương Uyên là cô sinh viên rải truyền đơn chống phá, sử dụng cờ của VNCH, một chế độ mà Tổng thống là Nguyễn Văn Thiệu thì tuyên bố: “Mỹ còn viện trợ thì chúng tôi còn chống Cộng”; còn Phó TT là Nguyễn Cao Kỳ thì thú nhận là “bù nhìn”, là “con rối”; Phương Uyên còn trương khẩu hiệu: “Đảng Cộng Sản chết đi” viết bằng máu (lợn?); còn mưu đồ đặt bom tượng đài Bác Hồ; v.v… Vậy một người như GS Trần Đình Sử sao lại bênh vực những hành động phạm pháp đó?
Còn Nhã Thuyên? Ông cho phê phán Nhã Thuyên là do không hiểu chuyện trung tâm, ngoại biên; là sự xung đột về khung tri thức và thế hệ; là giới hạn việc nghiên cứu khoa học; là phê bình kiểm dịch v.v… Nhưng thực tế không ai phê phán Nhã Thuyên như vậy. Không ai phê phán Nhã Thuyên nghiên cứu thơ Mở miệng. Mà sự phê phán chính là phê phán những nhận thức sai trái của Nhã Thuyên nói chung và quan điểm sai trái về văn chương nói riêng qua luận văn nghiên cứu thơ Mở miệng. Vấn đề của Nhã Thuyên không chỉ sai lầm về học thuật mà còn liên quan đến lịch sử, đến lãnh tụ, đến chính trị tư tưởng, đến văn hóa nghệ thuật, đến đạo đức và thuần phong mỹ tục. Trong văn chương có chuyện dơ bẩn, tục tĩu, vì cuộc sống có như vậy, nhưng nó hoàn toàn khác với chuyện nhóm Mở miệng cho dơ bẩn, tục tĩu là thi pháp, là chuẩn giá trị. Vậy mà Nhã Thuyên ca ngợi: “Những thi phẩm này (đúng là phải gọi bằng từ “thi phẩm”) đều sạch, đẹp và giàu năng lượng cảm xúc”! Ngoài hành động kích động có tính chất phạm pháp của những kẻ nổi loạn, nhóm Mở miệng còn sử dụng tùy tiện hình ảnh các bậc thần thánh. Đó là hành động báng bổ của kẻ lưu manh, vô văn hóa, xúc phạm nghiêm trọng tín ngưỡng giáo dân. Vậy mà Nhã Thuyên viết: “Hiếm có bài thơ nào sử dụng những chữ vốn bị cho là cấm kỵ tài tình và hấp dẫn đến thế, thẳng băng ngang hàng, không kêu gọi lật đổ, mà bản thân nó đầy sức mạnh lật đổ
Tôi đã viết: “lỗi này không chỉ là lỗi của Nhã Thuyên và những người liên quan mà còn là lỗi của Trường ĐH Sư Phạm HN và của cả Bộ Giáo dục. Giáo hội Thiên Chúa giáo và Giáo hội Phật giáo cần phải kiện những kẻ phạm pháp và kiện Trường Đại học Sư phạm đã gieo mầm và dung túng một công trình phản giáo dục đến thế!”
Khi viết về những người chống đối và quấy rối, tôi gọi họ là “bầy đàn”, là “đám”; tôi luôn áy náy và không khỏi buồn đau vì trong đó có những người từng rất quý trọng tôi và tôi cũng rất quý trọng họ; như GS Trần Đình Sử trong bài viết này và ông Nguyễn Trung, vị cựu đại sứ và trợ lý của cố TT Võ Văn Kiệt. Cũng như với GS Trần Đình Sử, tôi với ông cũng có mối quan hệ đặc biệt mà ít người biết đến. Số sau có lẽ tôi cũng sẽ viết mấy câu về ông.
26-8-2013
ĐÔNG LA