ĐÔNG LA
LỊCH SỬ NHÌN QUA LỖ ĐỒNG XU
(Về cuốn Bên thắng cuộc của
Huy Đức)
Trong bài trước tôi có viết câu: “Vẫn là theo cái ý đồ bệnh hoạn nhằm lộn
ngược lịch sử, cùng một giọng với bọn Chu Hảo, Huy Đức San hô, Nguyễn Duy, đã
viết và được nhắc tới trong vụ bênh ông Bob này”.
Vậy hôm nay tôi đăng lại bài “Lịch sử nhìn qua lỗ đồng xu” viết về
thằng San hô Huy Đức để mọi người chưa biết Huy Đức là ai, viết cái gì thì
biết và tại sao tôi viết như trên. Bài “Lịch
sử nhìn qua lỗ đồng xu” chính là bài mà độc giả vào đọc dông nhất trong
suốt 4 năm tôi lập cái blog này, tới nay đã gần 20.000 lượt.
Còn sao tên nó dài thế vì nó tên
là San, bị hô nên trên mạng gọi là San hô, Huy Đức là bút danh, Osin là
nickname chủ trang blog.
14-6-2016
ĐÔNG LA
|
Trong
bài ben-thang-cuoc-vi-sao-toi-viet?, Huy Đức
viết:
“Không ai có thể đi đến tương lai một cách vững chắc
nếu không hiểu trung thực về quá khứ”; “Một hôm ở nhà Đỗ Trung Quân, nhà báo
Tuấn Khanh, người vừa gặp rắc rối sau một bài báo khen ngợi ca sỹ bị coi là
chống cộng Khánh Ly, buột miệng nói với tôi: “Anh phải viết lại những gì diễn
ra ở đất nước này, đấy là lịch sử”. Gần như không mấy ai để ý đến câu nói đó
của Tuấn Khanh, nhưng tôi thì cứ bị nó đeo bám. Tôi tiếp tục công việc thu thập
tư liệu với một quyết tâm cụ thể hơn: Tái hiện giai đoạn lịch sử đầy bi kịch của
Việt Nam sau năm 1975 trong một cuốn sách”; “Đây là công trình của một nhà báo
mong mỏi đi tìm sự thật. Lịch sử cần được biết như nó đã từng xảy ra và sự thật
là một con đường đòi hỏi chúng ta không bao giờ bỏ cuộc”.
Những
sự thật quan trọng liên quan đến vận mệnh của đất nước ai cũng muốn biết, có
điều những chuyện con con liên quan đến chính bản thân ta đây còn bị xiên xẹo
tùm lum thì những sự thật lớn lao đâu dễ biết được.
Theo
triết học, có cái tận mắt ta nhìn thấy cứ tưởng là sự thật nhưng lại không
phải, bởi nó là hiện tượng chứ không phải bản chất. Như than chì và kim cương,
người không biết cứ tưởng là hai chất khác nhau, nhưng thực chất chúng lại cùng
là các bon. Có những chuyện người thật việc thật vẫn không phải là sự thật bởi
chúng chỉ là những mẩu của sự thật mà thôi. Trong khi đó với tôi, sự thật cũng
vẫn chưa phải là lịch sử, không phải cái sự thật nào cũng là lịch sử, bởi với
mênh mông sự thật trong đời sống thì lịch sử nào chứa cho đủ?
Vậy
lịch sử là gì?
Có
lẽ chỉ sự thật nào có thể trở thành văn hóa, những sự thật chủ chốt, bao quát,
có thể nói lên được bản chất của vấn đề, giúp cho hậu thế những bài học bổ ích
thì sẽ thành lịch sử. Tất nhiên không chỉ có những bài học về sự thành công mà
có cả những bài học về sự thất bại. Vì vậy những từ “minh triết”, “hiền minh” là đúng nhất dùng để chỉ những phẩm chất
cần phải có của một nhà viết sử. Người ta cần phải thấu suốt hết mọi lẽ, với
tấm lòng thiện đức, thì mới có thể viết được sử.
Còn
Huy Đức cũng có tham vọng viết sử thì có cái gì?
Đó
là một chú bé sau giải phóng bị lóa mắt bởi: “Mấy chiếc xe đạp bóng lộn xếp trên nóc xe; cặp nhẫn vàng chóe trên ngón
tay một người làng tập kết vừa về Nam thăm quê ra; con búp bê nhựa – biết nhắm
mắt khi nằm ngửa và có thể khóc oe oe … Những chiếc máy Akai, radio cassettes”.
Từ đó thấy: “Có một miền Nam không giống như miền Nam trong sách giáo khoa của chúng
tôi”.
Tôi
khi ấy gần như thuộc lớp bộ đội sau cùng, cũng kịp trực tiếp tham gia chiến
dịch HCM. Từ rừng về tôi cũng thấy Sài Gòn to đẹp, nhưng có lẽ tôi là số rất ít
bộ đội không đi lùng mua khung xe đạp, búp bê, radio cassettes, mà cái mong ước
lớn nhất của tôi lúc ấy là được về thăm nhà và được vào đại học, chỉ thế thôi!
Huy
Đức, đến tận 1983 mới “có một năm huấn
luyện ở Sài Gòn… Tôi bắt đầu biết đến rạp chiếu bóng, Nhạc viện và sân khấu ca
nhạc. Cho dù, đã kiệt quệ sau 8 năm “giải phóng”, Sài Gòn với tôi vẫn là một “nền văn minh””, để rồi với cách nhìn ấy
đã có ý đồ viết nên cuốn sách: “Cuốn sách
của tôi bắt đầu từ ngày 30-4-1975, ngày nhiều người tin là miền Bắc đã giải
phóng miền Nam. Nhiều người thận trọng nhìn lại suốt hơn ba mươi năm, giật mình
với cảm giác bên được giải phóng hóa ra lại là miền Bắc”.
Đó
thực sự là cách nghĩ từ một cái nhìn thiển cận. Và với cách nhìn ấy, cái nhìn
lịch sử qua lỗ đồng xu như thế thì sẽ viết được cái gì?
Trước
khi phân tích cụ thể, ta thử xem qua dư luận về cuốn sách của Huy Đức.
Thật
kỳ lạ cả phía “ta” lẫn “địch” đều có người chê Huy Đức dữ dội thì có nhóm nhỏ
“xuất thân việt cộng” nhưng đang làm thuê cho những ông chủ thuộc “thế giới tự
do” thì rất ca ngợi cách nhìn lộn ngược của Huy Đức.
Trong
bài ĐỌC “BÊN
THẮNG CUỘC” CỦA HUY ĐỨC Posted on 10.12.2012 by nguyentrongtao , ông
GS TRẦN HỮU DŨNG, con Bác sĩ Trần Hữu Nghiệp nguyên là bác sĩ riêng của Bác
Tôn, một người đang dạy học bên Mỹ, viết:
“Bên Thắng Cuộc” của Huy Đức là quyển sách hay nhất về
lịch sử Việt Nam sau 1975 mà tôi được biết… Cuốn sách đầy ắp những thông tin mà
tôi chưa từng đọc được trong bất cứ sách báo nào đã xuất bản. Huy Đức là
một trong số rất ít (có thể đếm trên ngón một bàn tay!) ký giả Việt Nam
hiện nay có khả năng nghiệp vụ cao, dày dặn kinh nghiệm, và nhất là có biệt tài
tạo sự tin cẩn ở những người được phỏng vấn về những sự kiện vô cùng “nhạy
cảm”, thậm chí “thâm cung bí sử”… “Bên Thắng Cuộc” lột trần nhiều “huyền
thoại” về một số lãnh đạo Đảng Cộng sản Việt Nam ”.
Trần
Hữu Dũng cũng viết: “Trong chương 1, Ba
mươi Tháng Tư, Huy Đức đặt một tiểu tựa khiến người đọc ngỡ ngàng. Họ ngỡ ngàng
vì biết tác giả là người trưởng thành từ bên kia nhưng dùng hai chữ Tuẫn Tiết
đặt cho câu chuyện của các tướng lãnh bên này tự kết liễu đời mình trong ngày
chế độ sụp đổ… chỉ có thể dùng hai chữ “tuẫn tiết” chứ không thể có từ nào hay
hơn”.
Việc
Trần Hữu Dũng khen Huy Đức dùng chữ “tuẫn tiết” để ca ngợi dũng khí của mấy
người tự sát, vậy phải chăng đó cũng là cách gián tiếp chê gần một triệu người
lính chế độ cũ khác không tự sát là hèn nhát? Còn tôi thấy mấy vị tự sát chẳng
cần phải uổng mạng như thế nếu các vị biết Nixon đã thể hiện quyết tâm của Mỹ
dứt khoát bỏ rơi VNCH khi quát lên với Kissinger rằng (theo baomoi.com):
“Tôi không biết liệu lời đe dọa đó có đủ
không, nhưng tôi sẽ làm bất cứ việc chết tiệt gì - hay cắt đầu hắn ta, nếu cần
thiết” (I don't know whether that threat goes far enough or not but I'd do
any damn thing that is -- or cut off his head if necessary) khi nói về việc TT
Thiệu không muốn ký vào Hiệp định Paris. Đó cũng chính là cái lý do khiến tướng
Nguyễn Cao Kỳ từng thốt lên: “Đây là cuộc
chiến tranh của người Mỹ và chúng tôi là những kẻ đánh thuê”; rồi: “Việt Cộng gọi chúng tôi là những con rối,
những con bù nhìn của người Mỹ. Nhưng rồi chính nhân dân Mỹ cũng gọi chúng tôi
là những con bù nhìn của người Mỹ, chứ không phải là lãnh tụ chân chính của
nhân dân Việt Nam”. Vậy thì các vị đã tuẫn tiết thì tuẫn tiết vì cái gì? Vì
cái gì Huy Đức đã tôn vinh họ? Và vì cái gì Trần Hữu Dũng ca ngợi Huy Đức?
Nguyễn
Giang, hiện là Trưởng Ban Việt Ngữ BBC, tra trên mạng thấy: “Name: Nguyen Giang. Born 1972 in Son La, Vietnam . High
school and first year of law studies in Hanoi”, nghĩa là cũng là “con Việt
cộng” ở Sơn La. Trên bbcvietnamese.com, trong bài Về cuốn 'Bên Thắng Cuộc',
Nguyễn Giang viết:
“Các đoạn có giá trị nhất, nhiều tư liệu mới
nhất và tổng hợp được cách nhìn của các bên nhất phải kể đến giai
đoạn lực lượng cộng sản Nam và Bắc tiến vào Sài Gòn, và thời kỳ
quân quản rồi thống nhất hai miền.
… ngòi bút Huy Đức tỏa sáng trong giọng văn âm
thầm, cố gắng giữ vẻ bình thản nhưng bên trong sôi sục, thậm chí có
chỗ nghẹn đi vì các biến cố đau đớn cho hàng triệu người mà anh
chứng kiện cận cảnh, nhất là ở trong tâm thức một người đi bộ đội
về và từ Bắc vào sống trong Nam…
Các vụ ‘thâm cung bí sử’ trong chính trường
Việt Nam, nhất là giới tướng lĩnh như cái chết của các tướng Nguyễn
Chí Thanh thời chiến tranh, rồi những chuyện đột tử của các tướng
Hoàng Văn Thái, Lê Trọng Tấn, Đinh Đức Thiện sau này cùng một âm mưu
bao vây, hạ thấp tướng Võ Nguyên Giáp được mô tả thật sinh động”.
Trong
bài CÓ PHẢI MÁC LẠI LÀM KHỔ DÂN VĂN GIANG? phản bác TS
Phạm Ngọc Cương ở Canađa, tôi đã viết: “Từ
cái nhìn phi lịch sử, từ chỗ chê bai cuộc sống ở trong nước, ông Cương ca ngợi
Canada, nơi ông là một kẻ tha phương cầu thực. Mọi chuyện ông nói đều đúng cả,
nhưng đó chỉ là tư duy “phản xạ có điều kiện” của Pavlov, chứ không phải là cái
nhìn biện chứng của một tư duy triết học”, thì có lẽ ông Giang, ông Dũng
cũng giống như ông Cương thôi, cũng được những “điều kiện” ở Anh, ở Mỹ đã
tạo ra những “phản xạ” trong nhận thức, nên các ông đã ca ngợi Huy Đức viết
ngược như thế.
Ngẫm
lại cái số phận thật tai quái, tôi đây mà cũng lại có lần “hân hạnh” được dùng
tiệc cùng với “ông Trưởng ban” Giang nói trên và cả “nhà cách mạng Lê Công
Định” nữa tại quán Nga trên đường Tôn Đức Thắng, Q I, TPHCM!
Ngược
lại cái tư duy “phản xạ có điều kiện” nói trên, trên haingoaiphiemdam,
một chứng nhân được Huy Đức cho vào “trang sử” của mình là Lê Quang Liễn, một
Thiếu Tá Quân lực VNCH, đã phản đối Huy Đức:
“Một nhà báo chân chính phải viết cho sự thật, vì
lương tâm thì đừng bao giờ gán, chụp cho những người vắng mặt những gì vì lợi
ích cho bản thân, phe nhóm”.
MX
Phạm Văn Tiền ĐĐ F Khóa 20 Đà Lạt:
“Kính thưa quý diễn đàn.
Gần đây dư luận xôn xao về một quyển sách của tác giả
Huy Đức, người từ chế độ cộng sản viết về tài liệu lịch sử của cuộc chiến vừa
qua. Qua quyển sách có tên là " Bên thắng cuộc", nhìn toàn diện tác
giả dường như muốn diễn đạt và dẫn chứng những điều thật sự xảy ra sau cuộc chiến,
nhưng sự thật đó lại là những điều không thật… Những dẫn chứng bịa đặt mặc dầu
với những tên khác nhau, nhưng tác giả Huy Đức phải hoàn toàn chịu trách nhiệm
những điều không có thật trong quyển sách của mình. Qua quyển sách "Bên
thắng cuộc" của tác giả Huy Đức là những viên thuốc đắng có bọc đường”.
Ở
đoạn này Huy Đức rất giống Bùi Tín. Bùi Tín từng "chiêu hồi", cố công
"lập công chuộc tội" nhưng vẫn bị chửi rủa lăng nhục, thậm chí có
người còn tố cáo Bùi Tín giết người!
Về
phía “ta”, trong bài Cóp nhặt ý kiến bình về “Bên thắng cuộc” Posted
by butluan on Tháng
Mười Hai 21, 2012 . Về chuyện Huy Đức “tố cáo” nhà nước đầy đọa binh lính
chế độ cũ sau giải phóng, bạn Pham Truong Son – truongsonnd2007@yahoo.com.vn
viết:
“Các ông sang bờ bên kia đại dương đã gần 40 năm, mà
vẫn còn rất nhiều tổ chức, hội đoàn, cá nhân ngày đêm kêu gào chống phá, lật
đổ. Huống chi chiến tranh vừa kết thúc, quản lý rồi mà có khi các ông vẫn còn
làm loạn ấy chứ, để các ông tự do thì không biết thế nào!”
Bạn
Hoàng Việt Vũ:
“… Trại cải tạo là chuyện mà Nhà nước cần phải làm.
Chủ yếu là để đảm bảo an ninh trật tự trong nước, tránh việc chống phá của các
thành phần thuộc chế độ cũ trong hoàn cảnh khi mà nhà nước còn quá nhiều khó
khăn, nếu phải chống cả thù trong lẫn giặt ngoài thì thành quả cách mạng sẽ đều
bị sụp đổ.
Mặt khác, nếu so sánh giữa trại cải tạo của chế độ và
những nhà tù chế độ cũ như nhà tù Côn Đảo, nhà tù Phú Quốc, công việc cuốc đất
hằng ngày, tăng gia sản xuất, học tập chính trị có thấm gì so với những kìm
kẹp, nhận nước, đóng đinh, cưa chân mà chế độ cũ đã gây ra đối với những người
cách mạng.
Hãy nhìn xem, những người mà cha mẹ họ ra khỏi tù với
hàng trăm vết thương, ra tù với đôi chân bị cưa 7 lần, những người thân tìm
thấy xác của con cháu mình trên đầu vẫn còn hàng chục cây đinh dài cả chục cm.
Họ mới là người có quyền căm thù, có quyền lên tiếng, nhưng họ vẫn im lặng và
đặt lại quá khứ sang một bên, họ không quên đâu, họ vẫn nhớ, nhưng đối với họ
tương lai thì quan trọng hơn nhiều cái quá khứ đau đớn ấy”.
Bạn
Trần Hạ Long:
“Tôi định không viết nhưng thấy nhiều người than thở thở
than theo ông Huy Đức quá nên cầm lòng không được
Này các bác, tôi là dân Bắc Kì đây, gia đình tôi có cả
người từng làm làm ở hành chánh quốc gia đấy và từng làm dân biểu nữa, cũng đi
học nhưng ở lại không vượt biên, cũng chả sao cả… Tôi kể các bác nghe nhá:
…Ông họ tôi là thiên chúa giáo dân, ông tôi chiến đấu
chống Pháp tại hà nam, ông tôi là công dân nước Việt chống xâm lược nhưng chưa
hề xâm lược nước Pháp nhưng nước Pháp vĩ đại mang ông tôi ra phơi nắng trong
khi ông tôi bị thương nặng vì can tội ” làm Việt Minh” và ông tôi chết trong
đau đớn, nhưng còn hơn một số kẻ cúc cung vì nước Pháp thà làm trâu ngựa hơn
làm người tự do…
…Thả tù binh xuống biển, bẻ răng đập hàm… không thủ
đoạn đê hèn nào không làm… Nhưng các bác lờ tịt đi… muốn chối tội à. Tôi biết
còn nhiều bác từng nhuốm máu nay tỏ ra cao đạo phê phán cộng sản, nhiều bác
lính kiểng tỏ ra anh hùng.
Xin các bác nghĩ lại cho một ít”.
Xin các bác nghĩ lại cho một ít”.
Còn
với tôi, bộ sách của Huy Đức rất dày, riêng cuốn I đã hơn 800 trang, nên bài
này tôi chỉ muốn chỉ cho Huy Đức biết thực chất cái “nền văn minh” của Miền Nam
trước giải phóng là như thế nào thôi.
Như
trong bài về HUỲNH NGỌC TUẤN, HUỲNH THỤC VY tôi đã viết:
“Về sự tươi đẹp của chế độ VNCH, Huỳnh Ngọc Tuấn cũng
như không ít người từng ca ngợi và hay mang ra so sánh với Bắc Việt nghèo khổ,
có điều họ không hiểu rằng, đó chỉ là “lợi nhuận” của việc chống cộng mà cư dân
ở những vùng đô thị miền Nam được hưởng từ việc đánh đổi bằng máu của dân Bắc
bởi “chiến tranh phá hoại” và máu của dân cư vùng nông thôn. Theo "Fire In
The Lake" by Frances Fitgerald, Vintage Books, New York 1985, pp. 134-139,
khi viết về Diệm, tác giả cũng viết: “Đối với hắn, thế giới hiện đại là Sài-Gòn,
cái thành phố ký sinh trùng đó đã trở nên béo mập bởi máu của thôn quê và lợi
lộc của Tây phương. (For him, the modern world was Saigon ,
that parasite city that fattened from the blood of the countryside and the
lucre of the West)”.
Cụ
thể trong Viện
trợ nước ngoài trong Chiến tranh Việt Nam trên Wikipedia
theo Nguyễn Nhật Hồng Trưởng bộ
phận B29:
"Toàn bộ tiền viện trợ và tiền giúp đỡ của quốc
tế cho Việt Nam
đánh Mỹ đều tập trung về một đầu mối là B29... Từ 1965 đến 1975, B29 đã tiếp
nhận Sáu trăm bảy mươi tám triệu bảy trăm ngàn đô la Mỹ (số tròn) (678.700.000
USD), trong đó hơn sáu trăm hai sáu triệu đô la là tiền viện trợ đặc biệt, hơn
hai mươi bốn triệu đô la là tiền của các tổ chức và nhân dân quốc tế ủng hộ,
gần 21 triệu đô la là tiền lãi kinh doanh chuyển đổi và gửi ngoại tệ ở nước
ngoài, gần bảy triệu rưỡi đô la là lãi từ tiền dự trữ của chiến trường sau giải
phóng...".
Tài
liệu của CIA giải mật
của Hoa Kỳ
thì đưa ra những con số ước tính qua 20 năm, Liên Xô,
Trung
Quốc và các nước xã hội chủ nghĩa đã viện trợ cho Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
tổng khối lượng hàng hóa là 2.362.581 tấn; quy đổi thành tiền là hơn 7 tỉ rúp
(tương đương 7 tỉ USD, trong đó hơn một nửa là viện trợ quân sự).
Còn
Viện trợ quân sự Mỹ cho Việt Nam Cộng hòa:
“Theo nguồn do Việt Nam thống kê thì tổng viện trợ cho
VNCH từ 1954 đến 1975 là trên 26 tỷ USD. Theo nguồn của Hoa Kỳ thì tổng viện
trợ Quân sự cho VNCH từ 1955 đến 1975 là 16,762 tỉ USD. Lưu ý số vũ khí và viện
trợ trên chỉ chiếm một phần nhỏ trong tổng chiến phí của Mỹ ở Việt Nam . Nó chưa
bao gồm số vũ khí và chiến phí do quân đội Mỹ trực tiếp sử dụng trong giai đoạn
tham chiến trực tiếp 1964-1973, mà theo thống kê là trên 141 tỷ USD chi phí
trực tiếp, tương đương 686 tỷ USD theo thời giá 2008. Mặt khác, nhà kinh tế
Steven ước tính tổng chi tiêu cuối cùng của Mỹ cho cuộc chiến tranh Việt Nam sẽ
lên tới 925 tỷ USD; gấp 3,8 lần chi phí của Mỹ trong thế chiến thứ nhất và chỉ đứng sau chi phí của
Mỹ cho thế chiến thứ hai”.
Như
vậy tổng chi phí của Mỹ cho chiến tranh VN gấp hơn 130 lần mà phía VNDCCH đã
nhận được viện trợ. Vì thế cái “nền văn minh” mà Huy Đức thấy qua “Mấy chiếc xe
đạp bóng lộn”; “cặp nhẫn vàng chóe”; “Những chiếc máy Akai, radio cassettes”;
rồi: “rạp chiếu bóng, Nhạc viện và sân khấu ca nhạc” v.v… đều có nguồn gốc từ
“925 tỷ USD” mà Mỹ đã chi cho cuộc chiến ở VN, kèm theo 58000 nhân mạng nữa, để
rồi mất trắng trở về.
Theo
Vi Anh trong bài Tâm
Tư Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu :
“Tiến sỉ Nguyễn Tiến Hưng đưa ra một vài thí dụ và dẫn
chứng của sự kiện lịch sử tiêu biểu nhưng vô cùng đau đớn cho chánh quyến VNCH
khi lệ thuộc Mỹ. Về kinh tế nội việc xin Mỹ viện trợ gạo là cả một vấn đế phức
tạp, phiền toái mà trăm dâu đổ đầu tằm VNCH phải chịu. Cứ mỗi năm vào 16-5 mùa
giáp hạt, thì kho gạo VN hết, từ tổng thống đến chánh phủ phải chạy đôn chạy
đáo để cầu viện. Câu viện phải qua 6 bước. Xin Hành Pháp cấp, Quốc Hội chuẩn
chi, giải quyết vận chuyễn,. Vận chuyễn theo luật viện trợ Mỹ phải đấu thầu
chuyên chở. Ông Chủ tịch Ủy Ban chuẫn chì có công ty hàng hải “ bồ bịch” muốn
công ty của mình được thầu. Làm không khéo, đổ bể các nhà thấu khác la lên thì
VNCH mang tiếng xấu, mà không làm cho công ty bồ bịch của Ông thì chuẩn chi khó
khăn hay bị cắt giảm. Chở gạo từ Louisiana lên San Fran, từ San Fran về VN.
Nghiệp đoàn công nhân bốc dở biết Quân Đội ở Miển Trung đang cần gạo, họ hay
đình công để làm tiền. Chánh quyền VNCH không thể trả tiền vòi vĩnh mà cũng
không thể ngăn cản quyền đình công của nghiệp đoàn, trong khi Quân Đoàn I xếp
hàng xe chờ gạo, lính gần hết quân lương. Chánh quyền phải nhờ các thương gia
gạo dàn xếp. Đó là chưa nói gạo viện trợ về bán rẻ thiệt hại cho nông dân VN”.
Chính
Nguyễn Văn Thiệu còn có những câu nói để đời rất hồn nhiên thừa nhận việc mình
làm một ông Tổng thống “bù nhìn” như sau:
- Mỹ
còn viện trợ, thì chúng tôi còn chống cộng;
-
Nếu Hoa Kỳ mà không viện trợ cho chúng tôi nữa thì không phải là một ngày, một
tháng hay một năm mà chỉ sau ba giờ, chúng tôi sẽ rời khỏi Dinh Độc Lập!
Không
chỉ lệ thuộc về kinh tế mà về chính trị chế độ của Nguyễn Văn Thiệu cũng hoàn
toàn bị lệ thuộc. Khi Mỹ nhận ra sai lầm trong cuộc chiến ở VN, như việc “cắt
lỗ” trong đầu cơ chứng khoán, chính phủ Mỹ đã “vắt chanh bỏ vỏ” Nguyễn Văn
Thiệu không thương tiếc. Trong Nguyễn
Văn Thiệu – Wikipedia tiếng Việt:
“trong thư của Tổng thống Nixon gửi ông vào ngày 16
tháng 1 có đoạn: "Tôi đã quyết định dứt khoát sẽ ký tắt hiệp định vào ngày
23 tháng 1 năm 1973 tại Paris. Nếu cần tôi sẽ làm đúng như nói trên một mình.
Trong trường hợp đó tôi phải giải thích công khai rằng chính phủ của ông cản
trở hòa bình. Kết quả sẽ là sự chấm dứt không tránh khỏi và lập tức viện trợ
kinh tế và quân sự của Hoa Kỳ - và một sự thay đổi nhân sự trong chính phủ của
ông khó mà nói trước".
Trong
bức thư đề ngày 6/10/1972, Nixon còn ngầm đe dọa: "Tôi yêu cầu ông cố áp dụng mọi biện pháp để tránh sinh ra sau này một
tình huống có thể đưa tới những biến cố tương tự như biến cố mà chúng tôi đã
ghê tởm năm 1963 và chính bản thân tôi cũng đã kịch liệt phản đối năm
1968...".
Henry
Kissinger về sau trong hồi ký của mình đã cho rằng: “Nguyễn Văn Thiệu đã điều hành quốc sự theo một kiểu "tàn
bạo", "xấc láo", "ích kỷ, độc ác" với những "thủ
đoạn gần như điên cuồng" khi làm việc với người Mỹ”; Kissinger cũng
tiết lộ rằng, khi nói về việc Nguyễn Văn Thiệu ngăn cản Mỹ ký hiệp định Paris,
Tổng thống Nixon đã giận dữ thốt lên: "Ông
sẽ hiểu thế nào là sự tàn bạo nếu tên đểu giả đó không chịu chấp thuận. Ông hãy
tin lời tôi."
Một
“nền văn minh” luôn tùy thuộc vào chế độ chính trị và tiềm lực kinh tế. Vì
những lẽ trên đây mà người ta đã cho cuộc sống ở Sài Gòn trước 75 chỉ là “phồn vinh giả tạo”. Mà nền kinh tế ấy
cũng lại: “ở miền Nam , Hoa kiều
kiểm soát gần như toàn bộ các vị trí kinh tế quan trọng, và đặc biệt nắm chắc 3
lĩnh vực: sản xuất, phân phối, và tín dụng. Đến cuối năm 1974, họ kiểm soát hơn
80% các cơ sở sản xuất của các ngành công nghiệp thực phẩm, dệt may, hóa chất,
luyện kim, điện... và gần như đạt được độc quyền thương mại: 100% bán buôn, hơn
50% bán lẻ, và 90% xuất nhập khẩu. Hoa kiều ở miền Nam gần như hoàn toàn kiểm soát giá
cả thị trường”.
Đó
là những thông tin chỉ bấm một phát là ra trên Google, vậy mà Huy Đức đến
tận bây giờ còn mù quáng thì thử hỏi còn tham vọng viết lách cái gì?
Còn
cuộc sống ở ngoài bắc trước 1975, Huy Đức cần phải hiểu nếu không có
chiến tranh, nếu miền Bắc không phải “Thóc
không thiếu một cân, quân không thiếu một người”, “tất cả vì Miền nam ruột thịt” thì chắc chắn mức sống 2 miền Nam,
Bắc không quá chênh lệch như thế!
Cũng
liên quan đến Kissinger, cũng về sự lệ thuộc nước ngoài, Lê Mai
trong bài Ba bảo bối của Lê Đức Thọ viết về Lê Đức Thọ, một nhân vật mà
Nguyên Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Dy Niên cho "Ông ý là nhà ngoại giao
khổng lồ”; nguyên Tổng bí thư Lê Khả Phiêu đánh giá là một “phái viên chiến
lược toàn năng, có thể ví như một tướng quân tài ba thao lược” (VietNam.net);
còn Huy Đức trong cuốn sách của mình đã cố công bôi đen hình ảnh của ông bằng
những tư liệu không chính thống; nhưng thực tế, với Nguyễn Văn Thiệu, ta càng
thấy nhục cho người Việt mình trước người Mỹ bao nhiêu thì với Lê Đức Thọ, ta
lại càng tự hào bấy nhiêu. Lê Mai đã viết:
“Kissinger viết: “Tóc hoa râm, đường bệ, Lê Đức Thọ
bao giờ cũng mặc bộ đại cán màu xám hoặc ma-rông. Đôi mắt to và sáng, ít khi để
lộ sự cuồng tín đã thúc đẩy ông hồi mười sáu tuổi đi theo phong trào du kích
cộng sản chống Pháp. Ông bao giờ cũng tỏ ra rất bình tĩnh, thái độ bao giờ cũng
không có điều gì chê trách được, trừ một hai lần. Ông hoàn toàn biết ông muốn
gì và phục vụ lý tưởng của ông một cách tận tụy và khéo léo”.
Kissinger
dường như tin rằng chìa khóa để giải quyết vấn đề VN là ở Mátxcơva và Bắc Kinh.
- Ngài cố vấn qua Bắc Kinh, Mátxcơva, chắc đã được các
bạn của ngài thông báo về ý kiến của chúng tôi trong đợt đàm phán này -
Kissinger khiêu khích.
- Bạn chúng tôi ủng hộ chúng tôi, nhưng không làm thay
chúng tôi. Mấy năm qua các ông cứ chạy vay chỗ này chỗ kia, chỉ làm phức tạp
thêm vấn đề. Trong một ván cờ, quyết định thắng thua phải là người trong cuộc,
không có cách nào khác. Chúng tôi độc lập giải quyết vấn đề của chúng tôi - Lê
Đức Thọ trả lời.
Khi
Kissinger thông báo, Sài Gòn sẽ không ký, Lê Đức Thọ nói với Kissinger: “Năm năm nay không bao giờ ông để tôi tin ông
lấy một lời. Ông hứa danh dự rồi chính ông lại dí ngay lời hứa đó xuống chân
ông. Ông lật lọng hết mức”.
Kissinger
bực lên và đáp: “Ông nói là lời của tôi
vô giá trị, thế thì ngồi đây đàm phán làm gì. Tôi phải tính đến chuyện lần sau
để người khác đàm phán với ông, tôi với ông không đàm phán với nhau nữa”.
Kể
cũng lạ, đi đàm phán với đối phương là giáo sư Đại học Harvard lừng danh mà Lê
Đức Thọ nhiều khi ứng xử như với cán bộ của mình, nghĩa là tiếng oang oang, chỉ
mặt lên tay, thậm chí còn nói thẳng ra rằng Kissinger là kẻ nói láo!
Một
hôm, trước bữa nghỉ ăn trưa, Kissinger nói với Lê Đức Thọ:
- Hiện giờ ông cố vấn đàm phán với tôi thì ông nói như
mắng tôi; sau này kết thúc đàm phán, chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình
rồi, thì ông mắng ai?”.
Tóm
lại, Bên Thắng cuộc là cuốn sách được Huy Đức viết rất kỳ công, chi li, nhưng
những cái bình thường thì đều đã được đăng tải trên sách báo chính thống, còn
những cái khác thường thì cũng đã đăng tải trên mạng. Riêng tôi thì còn biết
hơn nhiều lần kể cả số lượng cũng như độ ‘ghê gớm” của những tư liệu, quan
trọng là phải biết có cần viết ra hay không mà thôi. Chỉ có điều đặc biệt là
Đức khoe do công việc nên đã được gặp và phỏng vấn nhiều nhà lãnh đạo và những
cán bộ cao cấp, đảm bảo tính chính xác của thông tin, bởi đều là những chuyện người
thật việc thật. Nhưng như tôi đã viết, dù đúng là chuyện người thật việc thật,
nhưng nếu chỉ là cái nhìn chủ quan, phiến diện, cục bộ thì chỉ là những mẩu sự
thật chứ chưa phải là sự thật. Mà Lịch sử lại cần phải được viết bởi sự minh
triết để có thể bao quát thấu suốt, viết ra được bản chất sâu xa nhất của các
sự kiện, để đời sau rút ra được những bài học bổ ích. Trong khi đó Bên thắng
cuộc lại chỉ xoáy vào cái xấu, cái yếu kém, lại được nhìn nhận bằng một cái tâm
tối trí thấp, nên cái mà Huy Đức viết ra không phải là lịch sử với ý nghĩa cao
quý nhất của nó mà chỉ là những ghi chép sai lạc. Theo tôi, đây là cuốn sách
rất nguy hiểm bởi cái vẻ khách quan, và thái độ điềm tĩnh khi liệt kê chi li
các vụ việc; người có thành kiến, người ít hiểu biết và nhất là lớp trẻ rất dễ
bị dẫn dắt để tin đó là sự thật!
Với
những Chỉ thị về việc “Nói và viết những
vấn đề liên quan đến lịch sử và lãnh đạo Đảng, Nhà nước”, chắc chắn Huy Đức
đã vi phạm. Phải chăng Huy Đức không sợ vì đã noi theo Herostratos
(‘Ηρόστρατος), một thanh niên thời cổ đại, hy vọng sẽ trở nên nổi tiếng đã
phóng hỏa đốt Đền thờ thần Artemis? Chắc không phải vậy, mà Huy Đức chỉ
noi theo một số người ở chính nước ta đã nổi danh bằng cách nói ngược. Điển
hình như bà Dương Thu Hương mà Huy Đức đã coi như thần tượng từng nói là đã
khóc như cha chết trong ngày giải phóng vì thấy đội quân chiến thắng của mình
là đội quân man rợ. Có điều bà này cũng xạo, cũng là kẻ như các cụ nói là lá
mặt lá trái, cơ hội, vì thực tế, ngày mới giải phóng bà ta không
"khóc" mà đã viết truyện “Loài hoa biến sắc” cho “nền văn minh” của
SG, cái “nền văn minh” đã làm lóa mắt Đức đó, chỉ là “Một lớp giấy trên
chiếc rọ làm hình nhân bị xé rách. Một lớp váng dầu ngũ sắc bị khuấy tan trên
mặt nước tù” mà thôi!
Cuốn
Bên thắng cuộc còn rất nhiều vấn đề, nếu còn hứng viết, tôi sẽ viết tiếp.
TPHCM
24-12-2012
ĐÔNG LA