Tôi đã thực sự tràn ngập một cảm xúc rợn ngợp
như từng có khi đọc truyện của G.G. Marquez trước những dòng chữ đau đớn của
anh khi viết về cái chết của cha mình: “Ông đã uống một loại thuốc với một
liều thật chắc chắn, và chắc ăn hơn, ông còn treo mình trên cành bồ kết cạnh
ao bèo nhà tôi. Ông đã sáng tạo ra hai cái chết cho một cuộc đời, mà Tạo hóa
theo luật, chỉ ban cho mỗi người có một”; “Tôi đã gặp lại cha khi người đã bị
dìm sâu dưới một khoảnh đất nghĩa địa ngập ngụa bùn nước”; “Đêm đêm tôi không
ngủ được. Trong ngôi nhà cổ hoang vu, mênh mông, giăng kín những dải vải
trắng, từng đàn dơi bay phần phật phần phật và tiếng con mèo rền rĩ khóc”…
TRẦN NHÃ THỤY (Trích Báo
Văn nghệ TP HCM số 295,1997)
Từ tận đáy của những nỗi tuyệt vọng,
sự chông chênh của một cuộc sống bất định, bất an, thiếu thốn, tôi bất ngờ
trở thành một kẻ khá giả như một sự huyền nhiệm. Đúng ra trò khoe mẽ cũng không
hay ho gì nhưng trong chuyện này cũng có nhiều chuyện đáng nói.
Tôi sinh tại một vùng
quê, cũng gần Hà Nội thôi, nhưng cứ thấy xa thăm thẳm. Bởi muốn về quê, phải
đi qua những con đường huyện, đường thôn chi chít những ổ gà, ổ trâu mà xe
chạy trên đó không khác gì chạy dưới ruộng. Quê tôi cũng có mấy ông làm to.
Nghe nói tỉnh đã định sửa đường mấy lần để các cụ về thăm quê cho đàng hoàng
nhưng cứ chuẩn bị khởi công thì các cụ lại chết! Sau mấy năm đi bộ đội, hòa
bình về tôi được đi học, rồi sinh sống luôn tại Sài Gòn; một mình ở Sài Gòn,
không một người thân. Giờ nghĩ lại thấy có chút gì đó phiêu lưu. Tất nhiên
không phải như những trò mạo hiểm mà chính là sự phiêu lưu trên con đườnng đi
tìm thành công ở cõi đời này. Đã có những lần người này người nọ nói, kể ra
tôi là con một ông to; kể ra tôi khôn ngoan… Tôi sẽ được… Nhưng tôi không có
những cái đó. Cha tôi là nông dân, ông là y sĩ nhưng cũng là y sĩ nông dân.
Đời ông không để lại cho con cái của cải gì, ông chỉ để lại cho tôi cái tính “Mình làm đúng thì không sợ thằng nào hết”.
Có thể ông đúng ở một xã hội thôn quê đơn giản. Nhưng cuộc sống ở đô thị với
dằng dịt mối quan hệ không như thế. Nó cần có một nghệ thuật sống. Tôi rất
biết nhưng lại không có. Bởi người ta sinh ra trên đời luôn mang trong mình
dòng máu của cha ông, cái cốt cách của một vùng đất mà tuổi thơ ta đã lớn
lên.
Sau khi tốt nghiệp, tôi
cũng được chọn trong số những người đỗ đầu các chuyên ngành về làm việc tại
một viện nghiên cứu về Dược của Bộ Y tế.
Vừa ra trường, được một
nơi sang trọng đến rước ngay, được làm công việc yêu thích, là một điều chỉ
có trong giấc mơ của sinh viên. Tôi thực sự hạnh phúc. Ở nơi này, vốn là những
hãng bào chế của chế độ cũ, từ hội trường lớn, các phòng thí nghiệm lấp loáng
những dụng cụ thủy tinh, thư viện, đến các phòng ăn, phòng tắm… tất cả, tất
cả đều sang trọng, sáng choang. Tôi thầm nghĩ, mình khỏe mạnh, đầu óc không đến
nỗi tồi, cha là chiến sĩ giải phóng Điện Biên, mình thì giải phóng Sài Gòn,
còn điều gì phải lo nữa, cứ làm việc cho tốt là tiến lên thôi…
Bây giờ nghĩ lại mà buồn
cười. Tôi nhớ đến bạn bè trong lớp thuở nào. Sau hơn chục năm ra trường, đứa
làm quan, đứa không, đứa làm chuyên môn, đứa không, đứa giàu, đứa nghèo, đứa
hạnh phúc, đứa bất hạnh … Nhưng có điều lạ, không phải cứ tài năng, cứ thông
minh, học giỏi, đức độ hơn thì thành đạt hơn; nhưng cũng không phải cứ ngu
dốt, cứ đểu cáng, gian manh, lừa lọc thì được… Như có một sự mầu nhiệm, huyền
linh trong cõi sống này. Cả cõi sống như một bàn cờ vĩ đại.
Còn tôi, có thành đạt
không? Tôi không biết. Tôi đã có được những cái mà ngày xưa trong mơ cũng không
có, nhưng còn quá nhiều chuyện lẽ ra phải khác. Người ta bảo ông Trời cũng so
đo tính toán lắm, lại còn bảo có luật bù trừ nữa!
Sau một thời gian về
viện, một hôm, vào thời kỳ mà ở viện đã bắt đầu có những chuyện lộn xộn, anh bạn
cùng lớp tên T. đến chơi. Một cuộc gặp gỡ khó quên. Chính từ nó, một nửa con
người tôi vẫn đang lịm ngủ bỗng trỗi dậy, đã trộn thêm không biết bao nhiêu
phức tạp vào cuộc đời vốn đã rất phức tạp của tôi. Nhưng đến giờ tôi cũng
không biết như vậy là tốt hay xấu nữa. T. rủ:
- Tao có bà đồng hương
là nhà thơ nổi tiếng(1), bà cũng có một đứa con gái. Nhà gần đây.
Tao với mày sang chơi đi.
Tuổi đôi mươi, nghe thấy
có con gái là mắt sáng như sao rồi. Tôi đi ngay. Nhà bà chỉ cách khu tập thể
tôi ở có mấy trăm mét, trong một hẻm nhỏ yên tĩnh, một trệt, một lầu. Tôi thấy
ban-công được phủ kín một giàn thiên lý; bờ giậu ngoài cửa sổ phòng khách có
treo mấy chậu kiểng nhỏ gì đó, luôn túa xuống những cọng dài, từng khúc, từng
khúc lại mọc ra một chùm lá thanh mảnh mềm mại. Bà trạc tuổi mẹ tôi, khoảng
60, tiếp chúng tôi rất niềm nở, có quan tâm đến tâm lý người đối thoại. Bà
nói, bà muốn tôi thường xuyên đi lại nhà bà vì nhà neo người. Bà còn hứa sẽ
làm mối cho tôi một cô giáo trẻ đẹp lắm. Tôi ngồi ngắm nhìn một giá sách nhỏ
để riêng những tác phẩm của bà, không ngờ từ lâu đã tồn tại một Hội Nhà văn
và đã có biết bao tác phẩm chào đời. Vốn chỉ thích học Tự nhiên, tôi thực sự
chỉ biết nước Việt Nam
mình có vài nhà văn, nhà thơ, mà do phải học môn văn trong trường, tôi mới
biết đến mà thôi. Không biết mọi người có vô tâm với văn chương như tôi không
nhỉ? Nhưng tôi biết một cách chắc chắn rằng, bạn bè cùng học, giới kỹ thuật
rất ít đọc sách văn chương; nếu có, họ chỉ đọc loại văn chương của những tên
tuổi mà tầm tư tưởng đủ sức chinh phục họ.
Chiều ấy, tôi đã tìm
mua một tờ Văn nghệ xem văn chương như thế nào. Tôi đã đọc hoàn toàn hồn nhiên,
không bị ràng buộc bởi bất cứ một quy tắc nào mà những cây bút ít tài lại
khệnh khạng, thời gian đã đắp điếm thêm cho bao hư danh, đã đặt ra cho nghệ
thuật; và thấy rất khó đọc. Có một vẻ gì đó lê thê và khô cứng.
Tôi nghĩ đến những bài
thơ đầu tay của mình. Thực ra tôi cũng đã có làm thơ. Thật lạ, từ một người
không bao giờ quan tâm đến văn chương, thế mà tự dưng lại đi làm thơ. Đó
chính là kết quả của mối tình đầu. Tôi đã mang sang đưa cho nhà thơ xem. Đọc
xong bà nói:
- Hình như cháu cũng
có năng khiếu. Nhưng thơ cháu chưa được. Thơ bây giờ phải thực, phải tình cảm,
sâu sắc và đặc biệt là không được giống ai.
Đó có lẽ là bài học thơ
ca đầu tiên và duy nhất của tôi. Đến bây giờ thì tôi hiểu thơ ca không phải
chỉ có thế. Nhưng hồi ấy nó đã giúp tôi nhiều trong việc làm ra các bài có
thể đăng báo được. Lúc đầu nghe bà nói tôi tự ái. Không định làm nhà thơ mà
cũng tự ái. Đêm ấy tôi cắn bút. Thơ thực thì dễ, tình cảm cũng dễ, còn sâu sắc
thì mông lung lắm biết thế nào. Cứ viết về mẹ là chắc ăn nhất. Để “không giống
ai”, tôi nghĩ mình sẽ chỉ viết ra những cái chính mắt mình nhìn thấy, những
tâm tư của chính mình, và tôi đặt bút viết về hình ảnh mẹ tôi gánh lúa, một
công việc nặng nhọc nhất và cũng là đặc trưng nhất của những bà mẹ nông dân:
Tuột quai dép dẫm hòn sỏi nhỏ
Xót xa nhớ về bóng mẹ đường dài
Nắng đốt mặt đường đất bốc hơi
Chân đất vai gầy oằn gánh nặng…
Cứ thế, không khó khăn
lắm, sau một lúc thì tôi làm xong bài thơ. Nhưng có phải là thơ? Có hay không?...
thì quả thật tôi không biết.
Sáng sớm hôm sau, tôi
sang đưa bài thơ mới làm cho nhà thơ coi. Tâm trạng hồi hộp như chờ đợi một kết
quả thi cử. Không ngờ bà nói:
- Bài này ai làm
đây?
- Cháu làm đó cô.
- Cô không tin là cháu
đấy. Cháu có tài đấy cháu ạ, mày viết hay lắm. Nhưng còn phải thế này… thế
này… Bây giờ cháu làm tiếp mười bài nữa và phải nghĩ ra một cái bút danh.
Tôi nghĩ đến quê mình.
Ngay đến cả cái huyện to tướng cũng không bao giờ thấy tên trên báo, huống hồ
cái làng bé tí ti kia. Tôi nói:
- Quê cháu là một nơi
khỉ ho cò gáy. Cháu muốn tên làng cháu được in trên báo. Nó là ĐÔNG LA.
Bà nói:
- Tên nghe ngồ ngộ. Thôi
cũng được, không lẫn với người khác.
Tôi ra về, bụng mừng
lắm, lâng lâng như một kẻ vừa được đặt chân lên ngưỡng cửa của một khu vườn hứa
hẹn nhiều hoa thơm, trái lạ. Tôi nhớ đến hồi ở ký-túc-xá, dù không chú ý các
khoa xã hội, nhưng tôi cũng đã để ý đến những người ở khoa văn có tác phẩm
được đăng, đã thấy ở họ có một cái gì đó hay hay, huyền bí. Tôi đâu biết chính
cái hay hay huyền bí ấy, khi người ta “dính” vào có thể bị nghiện như chơi,
như nghiện một thứ thuốc phiện mạnh nhất. Nó có thể làm rạng danh một con người,
nhưng cũng có thể quật ngã một con người. Làng tôi có một anh chàng dáng
người tiền sử; da đen; trán thấp; mũi thô, ngắn và hếch; môi thâm, thưỡi; cổ
to và ngắn… không hiểu do duyên cớ nào tự dưng muốn trở thành nhà thơ. Anh
chàng một năm đi đóng gạch mấy tháng để chuẩn bị “cơ sở vật chất”, bỏ vợ để toàn tâm toàn ý cho sự nghiệp. Đêm
đêm, trong ngôi nhà như một túp lều, vách trát bùn, mái rạ, trong bản hòa tấu
râm ran, miên man của ếch, của chão chuộc, của sọt sành… anh chàng làm những
bài vè trong quầng sáng tù mù của ngọn đèn dầu sạm muội khói. Tất nhiên là
không thành công. Dù không chỉ một lần, với chiếc xe đạp cọc cạch, anh chàng
đã vượt qua cả chặng đường dài 60km lên Kinh đô, đã gặp được những nhà thơ
hàng đầu nhưng vẫn không thể vượt qua được cửa ải của chữ nghĩa. Anh ta làm
đến khi bị tâm thần thì thôi. Mỗi khi có máy bay bay qua làng anh ta ra giữa
sân chửi:
- Đả đảo bất công! Chúng
bay không dìm được ông đâu!...
Thế mà bây giờ tôi cũng
làm thơ. Đang là kỹ sư, làm công việc nghiên cứu ngon lành, lại đi làm thơ.
Không biết rồi tôi có bị thơ “vật”
cho như anh chàng cùng làng kia không?
Tất nhiên, đầu óc tôi
không thể đồng hạng với anh chàng thôn quê không thi nổi tốt nghiệp cấp 1 ấy
được. Nhưng độ “điên khùng” thì chưa
chắc ai hơn ai. Tôi làm một lèo mấy chục bài chứ không phải chỉ mười bài. Một
hôm, khi đã đọc hết mấy chục bài của tôi, nữ thi sĩ già đã nói với tôi một
cách trang trọng:
- Cháu ạ, cô đã gặp và
đào tạo được nhiều nhà thơ trẻ. Có người bây giờ còn nổi tiếng hơn cả cô. Nhưng
cô thấy cháu là thông minh nhất. Có lỗi, người ta phải hàng tháng, hàng năm
mới sửa, mới thay đổi được. Còn cháu thì làm được ngay. Có lẽ mày rồi sẽ “hậu
sinh khả úy” đấy cháu ạ.
Đến lúc này thì không
phải là chuyện chơi nữa rồi. Mặc dù không biết nhà thơ nhận xét mình có đúng
không, nhưng bất chợt, tôi cảm thấy mình như được giao một sứ mệnh cao cả,
thiêng liêng. Chưa hề được đăng một chữ nào mà tôi thấy mình như đã nổi tiếng
lắm. Từ đó, giống như anh chàng cùng làng ngày nào, đêm đêm, tại căn phòng 14
m2, không cánh cửa sổ, mưa gió hắt đầy nhà mà tôi không cảm thấy
gì, tôi chong đèn làm thơ. Ban ngày thì vẫn đi làm bình thường nhưng chủ yếu
để lĩnh lương chứ không ôm mộng thành tiến sĩ nữa. Dù đã có một thời, cứ thấy
hình ảnh những người mặc áo choàng trắng trong phòng thí nghiệm, lòng tôi lại
dậy lên những xốn xang. Nhưng khi bước vào thực tế, tôi đã bị thất vọng, tôi
ngạc nhiên khi thấy trong lĩnh vực nghiên cứu khoa học uyên thâm này người ta
cũng đấu đá, tranh giành nhau!
Sau đó, sự nghiệp văn
chương của tôi có tiến triển. Mà hình như tôi cũng có thông minh thật. Chỉ
sau một thời gian rất ngắn, không chỉ làm thơ, tôi còn viết truyện ngắn, viết
phê bình nữa. Những bài viết đã khiến không ít người ngạc nhiên. Có người
hỏi, tại sao tôi là kỹ sư lại viết được như thế? Tôi không trả lời. Thế những
người không là gì viết thì sao? Nhưng để lại ấn tượng sâu đậm nhất vẫn là bài
thơ đầu tiên được đăng báo. Tôi ngẩn ngơ mất mấy ngày. Kể hiểu được điều,
đăng một bài thơ sẽ có bao nhiêu người đọc nó, có một ai đồng cảm không? Có
lẽ người ta sẽ không mất công xúc động quá như thế! Nhưng chính cái phép “thắng lợi tinh thần” ấy lại là một
thuộc tính của con người, chính nó đã giúp người ta đứng vững trong cuộc đời
có quá nhiều nỗi buồn và lắm tai ương này!
Thế rồi, qua nhà thơ,
tôi đã có một cuộc gặp gỡ quan trọng. Cuộc gặp gỡ có ảnh hưởng dài lâu đến
chí hướng, đến cuộc sống tinh thần và tình cảm của tôi.
Một lần bà nói:
- Cháu ạ, nếu cháu được
gặp ông Chế(2), được ông ấy giúp cho thì tốt. Nhưng gặp được ông
ấy cũng khó, ông ấy tự kiêu mà cũng bận lắm.
Ngẫm nghĩ một lát
bà bày mưu:
- Bây giờ cô sẽ đưa cho
cháu một chai rượu thuốc mang lên biếu ông ấy. Nhưng cháu cứ làm quen với cô
Thường(3) trước đã. Cô sẽ viết giấy nhờ cô ấy đọc góp ý cái truyện
ngắn mới đăng của cháu. Rồi từ từ có dịp thì đưa thơ cho ông ấy đọc. Nếu ông
ấy mà bảo “được” thì mày nhất định
sẽ thành danh.
Tôi mừng lắm. Được gặp
một trong mấy nhà thơ lớn của đất nước là một điều bất ngờ lớn đối với tôi.
Hồi nhỏ, dù ghét cay, ghét đắng môn văn nhưng không hiểu sao tôi vẫn nhớ và
yêu mến thơ ông. Một sự yêu mến hồn nhiên. Tôi còn trẻ, còn tò mò, cứ biết được
mặt ông cũng là tốt rồi.
Thế rồi tôi đã đến nhà
ông, được gặp ông như gặp một nhân vật của truyện cổ tích. Nhưng mãi đến dịp
Hội Nhà văn Tp HCM tổ chức một cuộc thi thơ mà ông được mời chấm chung khảo,
tôi mới nhờ được cô Thường đưa thơ của tôi cho ông coi. Sáng đó bà đã nói với
ông:
-Anh Hoan (tên ông) ơi, cậu này cũng có làm thơ, cậu ấy có chùm dự thi đây
này, anh coi giúp xem.
- Ông (ông thường gọi tôi vậy, còn tôi gọi ông là “chú” xưng “cháu”) cũng có làm
thơ à? - Rồi sau khi đọc xong, ông reo lên: - Ô, ông làm được đấy, ông
sẽ được giải đấy!
Tôi ngạc nhiên đến độ không còn biết đến vui mừng nữa vì không hiểu “được giải”
nghĩa là thế nào? Sao ông lại cho giải ngay tại nhà ông? Rồi ông tiếp: “Tôi
có thể cho ông giải cao nhất cũng được, nhưng ông chưa có lực khéo người ta
giết ông đấy! Thôi, tôi cho ông đứng đầu giải 3!” Nói xong, ông còn vào trong
buồng, bê ra một chồng vở khổ lớn ra khoe với tôi một cách hồn nhiên như khoe
một người bạn tâm giao vậy:
- Ông biết tôi làm thơ
như thế nào không? Khi nào nghĩ ra được một câu hay tôi chép vào quyển đầu
này, khi nào có tứ sẽ phác thảo vào cuốn thứ hai, tôi đánh mục lục đàng hoàng
để hoàn thiện dần.
Từ đó, như một quà tặng
của số phận, tôi được trở thành một người quen thân với gia đình và được ông
dành cho nhiều ưu ái. Tôi được nói chuyện với ông rất nhiều lần. Không hiểu
sao tôi lại rất nhớ câu ông tâm sự:
- Sao bây giờ tôi ngại
gặp mặt con người quá ông ạ. Tôi chỉ thích gần cây cối thôi. Vì thế tôi mới
chuyển nhà lên tận đây.
Không biết, đây có phải
là dấu hiệu mệt mỏi của một cơ thể đã về già hay là sự mệt mỏi của một cuộc
đời đã trải qua biết bao sự phức tạp của những mối quan hệ giữa con người với
con người?...
Rồi cho đến một hôm,
viện tôi chọn ra một đội tuyển để đi thực tập ở nước ngoài, trên dây chuyền tổng
hợp Tetracyclin bằng vi sinh. Tôi
cũng được chọn. Dù sao tôi vẫn làm tốt công việc ở viện. Chúng tôi được đi
học ngoại ngữ. Nhưng thật oái oăm, đúng lúc này lại có một cuộc thi truyện ngắn.
Thế là vừa học ngoại ngữ tôi vừa cắm cúi viết một truyện. Cũng chẳng phải lấy
ở đâu xa cho mất công mà viết ngay về những ngang tai trái mắt ở viện mình.
Bây giờ thì mới biết là thậm ngu, vì tự dưng lại đi phê bình người chọn mình
đi nước ngoài và bênh vực một người về hưu! Chẳng có ai lại ngược đời như thế
cả. Nhưng lúc ấy thì tôi không nghĩ thế. Tôi cứ nghĩ mình viết đúng thì không
làm sao cả. Mà hơn nữa, đã dám nhận một sứ mệnh cao cả thì còn phải tính toán
gì nữa! Viết xong, tôi liền gửi báo và sau một tuần thì được đăng. Không ngờ,
chuyến ra quân văn xuôi lần này cũng rầm rộ lắm. Đài thành phố, đài Trung
ương dồn dập đọc truyện của tôi. Về khu tập thể, tôi thấy suy nghĩ của mình
cứ oang oang phát trên đài. Với tâm trạng của một người đang bay trên tầu vũ
trụ, tôi núp ngoài cánh cửa nhà người ta nghe nhờ (vì tôi chưa sắm được đài).
Hàng xóm xôn xao, cơ quan xôn xao, cả ngành xôn xao, mãi tít mù ngoài Bắc quê
tôi cũng xôn xao. Mọi người ở các xí nghiệp đổ xô đi mua tờ báo. Tôi nhận
được thư cha tôi chúc mừng: “Thầy rất
mừng là con đã trở thành một nhà văn khá giỏi”. Tôi còn biết, một lần ông
nói với cán bộ xã: “Chúng mày thì là
cái chó gì, tao đây này, tao còn là bố nhà văn đây này!”. Thật tội nghiệp
ông. Bởi đúng ra tôi chỉ là một đứa con vô tích sự. Cho đến lúc ông mất, tôi
chưa báo hiếu được một điều gì. Đây chính là nỗi ân hận lớn nhất của cuộc đời
tôi.
Còn đối với lãnh đạo
viện, truyện ngắn của tôi như một đòn sấm sét. Một nhân vật phải về hưu để “thế mạng” cho cả một ê-kíp, trấn an dư
luận (kiểu Tào Tháo mượn đầu quan coi lương trấn an quân lính). Còn tôi, tất
nhiên là không được đi nước ngoài với một lý do thật giản dị, “để đến lần sau”! Cái lần không bao giờ
có!
Thế là chính từ
đây, cuộc đời tôi đã bị đẩy tới một khúc quanh. Cả phòng tôi đi nước ngoài hết
chỉ còn lại độc một mình tôi. Rồi tôi bị cho nghỉ 70% lương, rồi không lương,
là hợp lý lắm! Chua chát thay, văn với chả thơ!
Lúc này, nhà thơ nữ già
đã về Bắc. Tuổi già của bà không chịu nổi nỗi cô đơn ở nơi đây. Bà viết một
thư muốn tôi chính thức là con của bà, ra Hà Nội ở, rồi sẽ thừa kế toàn bộ
tài sản vật chất cũng như tác phẩm của bà. Tiếc là tôi đã làm buồn lòng bà vì
tôi đã có vợ và đứa con trai, với tôi không có gì sánh được với nó. Tôi thì
thế nào cũng được, nhưng vợ con tôi sống quen ở Sài Gòn, làm sao có thể ở Hà
Nội? Còn nhà thơ lớn kia thì thật đau đớn, ông đã mất! Trong một lần khám bệnh,
bác sĩ đã phát hiện ra khối u ác trong phổi ông!
Thế là không còn gì nữa.
Tôi đã đột ngột từ biệt văn chương như lúc đầu đột ngột đến với nó. Tôi không
hối hận gì cả, chỉ thấy trào lên một niềm căm giận, mình có làm điều gì sai
đâu? Tôi không biết là mình đã thực hiện một sự phiêu lưu. Làm một việc cần
đến sức mạnh mà trong tay lại không có gì cả. Chiều chiều, tuyệt vọng nằm gác
tay lên trán, tôi nghĩ kế sinh nhai. Tôi có thể chịu được mọi gian khổ, nhưng
còn thằng con nhỏ đầu lòng mới sinh của tôi, tôi đau đớn khi sinh nó ra trên
đời mà lại để nó khổ. Tôi không thể đi đạp xích lô, đi vá xe đạp, vì lỡ là
nhà thơ, là kỹ sư rồi! Tôi vùng dậy, đi gõ cửa tất cả các nơi có dính dáng đến
hóa, đến dược. Nhưng người lớn họ quen nhau hết ráo. Với tai tiếng chuyện viết
báo của tôi thì Sài Gòn cũng nhỏ thôi. Không một nơi nào dám nhận tôi vì đều
được báo trước: Nó là nhà văn đấy! Cơ quan làm ăn mà lại đi nhận một thằng
nhà văn tọc mạch là toi ngay mọi chuyện! Một tối! ngồi xem ti-vi nhờ, diễn vở
kịch bộ đội ta đánh sân bay Tân Sơn Nhất, tôi ứa nước mắt, chửi đổng: “Đ.mẹ! Bố mày cũng từng đánh nhau ở Định
Quán, La Ngà, Xuân Lộc, chôn không biết bao thằng bạn 19 tuổi chết tươi; bây
giờ phải chịu nhục thế này à?! Còn mấy thằng cơ hội thì lại vênh vang, được
trọng dụng; lại còn nước ngoài với nước trong tu nghiệp nữa! Đời thật chó
má!” Sáng sau, tôi hầm hầm đến cơ quan, gặp viện trưởng:
- Các ông mà không cho
tôi đi làm là tôi lại viết nữa đấy!
- Anh thông cảm, hiện
tại phòng anh đã đi hết rồi, còn có một mình anh thì làm được việc gì?
- Các ông thật bất công.
Các ông đã không cho tôi đi nước ngoài thì phải xếp việc cho tôi chứ. Không
lẽ ở viện này chỉ có phòng “Tổng hợp
hữu cơ” thôi sao?
- Thôi được rồi, anh
cứ về đi. Tôi sẽ bàn bạc với ban giám đốc. Có thể sẽ xếp anh làm tại phòng “Hợp chất thiên nhiên”.
Cũng may, ông viện trưởng
là người mới ở trên xuống, thay cho ông viện trưởng già về hưu, không có “ân oán giang hồ” gì với tôi. Có điều,
ông không “mạnh” lắm, tính ông nhu nhược. Đối thủ chính của tôi là nhóm ông
viện phó thì có thực quyền, thực chất. Trong đó, có một bà còn ghét tôi hơn
cả kẻ thù. Tôi không hiều tại sao, vì thực ra chưa bao giờ tôi đụng chạm tới bà ta. Bà ta cũng là dân
khoa học, cũng là phó tiến sĩ, trưởng một phòng nghiên cứu khác. Có thể do bà
ta ganh với bà trưởng phòng và phòng “Nghiên
cứu trung tâm” của chúng tôi chăng? Bà này còn có bà chị ruột mới lên thứ
trưởng, nên rất “mạnh”. Nhưng người lớn họ cũng khôn lắm. Họ rất hiểu “già néo đứt dây, chó cùng cắn giận”. Biết
đâu, tôi điên lên, lại tương cho một quả lựu đạn là toi đời! Hơn nữa, đúng
lúc này, bộ lại mới giao cho viện một công trình cực kỳ khó mà cả viện chưa
có một ai dám nhận: Chiết xuất thuốc
chống ung thư Vinblastin từ cây dừa cạn.
Thế là tôi lại được đi
làm. Khi trong lòng thanh thản trở lại, lần đầu tiên tôi hiểu được giá trị của
những hành vi, của những cách ứng xử, của nghệ thuật sống trong cuộc đời; mà
trước đây tôi chỉ biết đến có khả năng chuyên môn. Từ một kẻ thất nghiệp tôi
lại được trở thành người quan trọng. Tôi đã nhận đề tài với tâm trạng của một
người cưỡi trên lưng hổ và một lời thề không dính đến văn chương nữa. Phải
đứng trước bờ vực chông chênh của sự tồn tại, người ta mới nhận ra được sự vô
nghĩa của những hư danh. Văn chương với tôi lúc này thực sự là trò vô tích
sự. Tôi cũng đã thấy trong cái đền đài nghệ thuật thiêng liêng ấy cũng có lắm
chuyện.
Tôi đã nhận trọng trách
chủ nhiệm đề tài và dốc toàn bộ tâm sức vào làm việc với cung cách của một
thủ lĩnh, đứng đầu một nhóm mười đứa, cả dược sĩ, cả kỹ sư bách khoa phụ trách
máy và kỹ sư hóa phụ trách khâu phân tích, làm sắc ký.
Với dược liệu là cây
dừa cạn, chúng tôi tiến hành quy trình qua nhiều giai đoạn phức tạp. Từ việc chiết
xuất, cô đặc, loại tạp, đến việc phân lập hoạt chất với một tỷ lệ vô cùng nhỏ
trong alkaloid toàn phần bằng
phương pháp sắc ký cột. Chỉ sau ít tháng, nhóm chúng tôi đã làm ra được mấy
gam loại thuốc cực kỳ quý và đắt này (Giá thị trường thế giới hàng triệu USD
một ký). Chuyên gia của Pháp, của Ý đã đến thăm nơi làm việc của nhóm chúng
tôi. Tôi có nhiều triển vọng được đi Pháp tham quan, học hỏi thêm.
Trước một kỳ phép, tôi
phải trình bầy toàn bộ quy trình chiết xuất trước hội đồng khoa học của viện.
Như một sự báo công, một sự khẳng định, chứng tỏ năng lực của một người được
quay lại làm việc, tôi say sưa trình bầy tất cả mọi chuyện. Một lần nữa, tôi
lại mắc sai lầm. Một người từng trải, khôn ngoan, không hành động như thế.
Muốn tồn tại, người ta phải luôn giữ dịt lấy những bảo bối.
Tôi đã mang theo về kỳ
nghỉ phép một niềm vui của một người vừa làm được một công việc quan trọng và
quay lại cơ quan với hy vọng tràn trề, chuẩn bị triển khai quy trình với một
quy mô lớn. Không ngờ…
Ngay hôm đầu đi làm trở
lại, ông trưởng phòng tổ chức tìm gặp tôi. Ông này cũng bộ đội chuyển ngành,
không đến nỗi xấu. Ông nói:
- Bà Mận mới lên viện
trưởng thay ông An. Bà ấy có ý định cho ông nghỉ làm đề tài đấy. Bà ấy bảo
ông không hòa đồng với anh chị em. Ông cũng để cho công nhân làm bể mất cái
bình cầu quý 20 lít nữa… Có lẽ ông lại nghỉ một thời gian, chứ bây giờ không
biết xếp vào đâu. Nếu ông kiếm được cơ quan nào nhận nên chuyển đi.
Tôi bàng hoàng, không
tin ở đôi tai mình nữa. Có lẽ nào lại có một sự vô lý đến như thế?!
Nhưng tôi biết làm sao
được khi bà ấy bây giờ đã làm viện trưởng, chị bà ấy lại làm thứ trưởng. Lẽ
phải thuộc về tôi nhưng chân lý luôn thuộc về kẻ mạnh, đi kiện tôi sẽ thắng
nhưng sẽ phải tiêu tốn cả cuộc đời mất. Tôi chỉ có duy nhất một thứ vũ khí,
đó là những bí mật của công việc, thì lại trao cho kẻ thù mất rồi! Làm sao
người ta có thể để tôi làm tiếp để rồi sẽ được đi Pháp, đi Ý?!
Thế là lần thứ hai, tôi
lại thất nghiệp! Tôi đã khóc khi đột ngột bị dứt ra khỏi công việc đang làm
dở dang và cũng mới tìm lại được niềm say mê quý giá từng đánh mất. Tôi lại
được nghỉ ở nhà để mà lại vắt tay lên trán kiếm kế sinh nhai, kiếm một công
việc xứng với cái danh tiếng (không biết có không) của mình. Đã khó lại còn
sĩ và thế mới khổ! Có biết bao hy vọng, thất vọng, luân phiên trào lên rồi
lịm đi, bóp nghẹt tim tôi…
Từ đó, cuộc đời còn tiếp
tục giáng cho tôi những đòn chí mạng khác nữa. Nhưng tôi không chết đói mà
chỉ gầy thôi. Tôi đã từ bỏ tất cả xin đi Liên xô, thực chất là đi buôn xuyên
quốc gia một chuyến để kiếm tiền nuôi vợ con, cái chính là phải duy trì được
một cuộc sống ổn định trước đã. Nhưng rồi sau sáu tháng, không chịu nổi cảnh xô
bồ, chụp giật, tôi đã phải chịu phạt bỏ về trước thời hạn. Tưởng đã cùng đường.
Phải đến khi cha tôi mất, sau một giỗ, thì như người ta thường nói, tôi ĐÃ ĐỔI ĐỜI!
Do sự đổi mới của nhà
nước đã mở ra cho tất cả mọi người những cơ hội để tìm đến sự thành đạt hay
do cha tôi phù hộ? Tôi không trả lời được. Tôi không mê tín, nhưng thật khó
phủ nhận sự linh thiêng!
Cái chết của cha tôi
thật kỳ lạ! Dường như ông cố tình chết đi để cứu đời con mình! Vào nửa đêm ngày
13-5 âm lịch, oái oăm thay, như một sự sắp xếp tai ác của định mệnh, đúng hôm
tôi bay ở Liên Xô về Sài Gòn, sau khi ngủ một giấc say sưa, ông dậy. Mẹ tôi
nằm giường bên cạnh không nghi ngờ gì, vì ông có tật hay đi đồng ban đêm. Hồi đánh nhau xong ở Điện Biên, ông đã bị một
phẫu thuật ở hậu môn. Ông đã uống một loại thuốc với một liều thật chắc chắn,
và chắn ăn hơn, ông còn treo mình trên cành bồ kết cạnh ao bèo nhà tôi. Ông
đã sáng tạo ra hai cái chết cho một cuộc đời, mà Tạo hóa theo luật, chỉ ban
cho mỗi người có một! Đây là sự kiện gây chấn động lớn nhất trong lịch sử
làng tôi, dù rằng làng tôi không thiếu những chuyện ông già bà lão giận con,
giận cháu tự tử. Có ông đại úy công an về hưu còn khóa trái cửa, cầm một con
dao chẻ lạt rất sắc, tự cắt cổ mình! Cha tôi thì khác, gia đình tôi không có
những lý do tầm thường như thế để ông phải tìm đến cái chết. Hơn nữa tính ông
nóng như lửa. Con cái bố láo là ông chém. Không ai hiểu nổi tại sao ông chết?
Mẹ tôi thì nói, ông thuộc diện “tự dưng
muốn chết”. Còn tôi thì nghĩ, có lẽ chính nỗi buồn đã giết ông. Sống ở
thôn quê, nhưng ông có những mối quan tâm mà người khác không có. Ông đã để
lại một niềm tiếc thương vô bờ cho dân làng. Bởi bình thường ông hiền như đất và là một bác sĩ làng rất có uy tín. Có đứa trẻ
là con nuôi ông vì đã được ông cứu sống. Cả đời ông không màng tới một điều
gì, tiền tài, danh vọng… Ông chữa bệnh không lấy tiền. Nhưng ông lại muốn tôi
đạt được một cái gì đó để làm vẻ vang dòng họ. Ông muốn tôi vào Đảng! Tôi có
lỗi nhiều với ông, kể cả với cái ước muốn đó, cái mà một thời nhiều người cha
đều mong con cái có được, danh hiệu Đảng viên, còn hơn cả tiền tài, hơn cả
danh vọng!
Từ Sài Gòn, tôi muốn
bay ngay về với cha, nhưng không tiền, đành cắn răng ngồi trên con tầu ì ạch nặng
nhọc. Tôi đã gặp lại cha khi người đã bị dìm sâu dưới một khoảnh đất nghĩa
địa ngập ngụa bùn nước. Tôi đau đớn khóc và thầm nghĩ, ông còn khỏe lắm, mới
69 tuổi! Đêm đêm tôi không ngủ được. Trong ngôi nhà cổ hoang vu, mênh mông,
giăng kín những dải vải trắng, từng đàn dơi bay phần phật phần phật và tiếng
con mèo rền rĩ khóc! Tôi ân hận khôn nguôi vì chưa làm vui được tuổi già ông.
Cái tuổi già mong manh, yếu đuối, ý chí rệu rã mà thường con cái không bao
giờ để ý tới, bởi còn bận nhăn trán toan tính đủ chuyện từ viển vông cho đến
thực dụng để mà vênh vang với thiên hạ!
*
* *
Sau giỗ đầu cha tôi,
mọi chuyện hoàn toàn thay đổi. Tôi không cần đến viện viếc gì nữa vì tôi đã là
một ông chủ. Tôi đã đến với nền kinh tế thị trường như một người lính ra trận.
Tôi đã chiến đấu bằng tất cả trí tuệ, bằng cả nỗi đau. Tôi đã dấn thân vào
một cuộc cạnh tranh vô tư, mà sự ngu dốt, ích kỷ, đố kỵ, gian manh không được
bao cấp. Và, cuộc đời không còn thử thách nữa, tôi đã được trả công. Dường
như mỗi bước đi của tôi trong công việc như có một sự dẫn dắt của thần linh,
cái công việc mà tôi đã tự tạo ra được từ chính những công trình nghiên cứu
của mình. Tôi cũng đã tạo ra được một thị trường rộng khắp nước. Nhờ nó, tôi
đã giúp cho nhiều người có việc làm, có người trở nên giầu có. Vừa rồi tôi có
về quê cải táng cha… Tôi đã xây mộ cha và ông nội theo kiểu nghĩa trang công
giáo ở Long An, quê vợ tôi, mà ở quê chưa từng có, và làm một bữa tiệc đông
vui có tới hàng ngàn người tham dự. Nhưng cha ơi! Ở nơi chín suối cha có biết
chăng?
*
* *
Giờ đây, khi đã trà dư
tửu hậu, tôi bỗng lại nhớ đến văn chương, nhớ đến một thời gian khó và những
kỷ niệm. Thì ra văn chương không phải là tất cả cũng không phải không là gì
cả. Tôi phải trở lại với nó để tìm sự cân bằng. Không hiểu sao bây giờ, khi
không còn một điều gì nữa khiến tôi phải lo lắng về miếng cơm, manh áo, nhưng
trong lòng vẫn không một giây yên ổn. Phải chăng, lòng tham của con người
cũng có sức hành hạ người ta, làm điêu đứng người ta, không kém những nỗi bất
hạnh, tuyệt vọng?
TPHCM
Viết nhân ngày giỗ thứ 5 của cha 13-5-1995
_________________________
(1)
Nhà thơ
Anh Thơ
(2)
Nhà thơ
Chế Lan Viên
(3)
Nhà văn
Vũ Thị Thường
|
||
|