ĐÔNG LA
NHÂN CÁCH HUỆ CHI
Nguyễn Huệ Chi với bề dầy “thành tích” như
vậy mà mới đây lại bàn về nhân cách qua bài “Nhân Cách Cá nhân và Nhân Cách
Quốc Gia” (Báo Đại Đoàn Kết (27/3/2013) thì quả là da mặt ông này dầy thật!
Lần đầu tôi chú ý đến Huệ Chi là do (giờ thì
không cần phải giấu nữa) chính Triệu Xuân đã gửi cho tôi cái email của Huệ
Chi bịa đặt về tôi, được rải như truyền đơn trên mạng, sau khi tôi đăng bài Các Mác – một tình yêu bao la trên
Talawas:
“Vi.(vị)
na`y co the la mot hinh nhan the mang cho Tran Manh Hao va MQL (Mai Quốc
Liên) ma lau nay D (Đảng) su dung, nhung nay da khong con hieu luc (hiệu lực)
nua”.
Huệ Chi đã 75 tuổi (sinh năm 1938), trong
phạm vi gia đình thì có thể xếp vào hàng cô, chú của tôi, vốn học hành ở giai
đoạn nền giáo dục đại học ở ta còn chập chững những bước đầu tiên. Phải chăng
từ cái nhân đó nên cái quả tri thức của Huệ Chi cứ mãi bập bõm. Công trình
nghiên cứu của Huệ Chi rất lèo tèo, chủ yếu là cần biết chữ nho và tính cẩn
thận, rất ít tính sáng tạo. Không giống như tôi từng phải làm chủ nhiệm đề
tài khoa học công nghệ, giải quyết những bài toán mà người ta không làm được.
Về văn chương, tôi không chỉ sáng tác văn, thơ mà còn viết phê bình lý luận
giàu tính thi pháp học, đến GS Trần Đình Sử, một trong vài người viết nhiều
về thi pháp ở VN, còn phải sưu tập. Số Huệ Chi quả là đỏ vì với nền tảng học
vấn đó, đóng góp chủ yếu là chủ biên, mà những công trình chính còn bị tố là
cướp công, vậy mà vẫn được nhà nước phong phó giáo sư, rồi giáo sư! Rồi còn
được làm Chủ tịch Hội đồng Khoa học Viện Văn nữa (1988-1996)! Tôi không hiểu
một Viện Văn với một ông Chủ tịch Hội đồng Khoa học mà đến những khái niệm cơ
bản của tri thức cũng sai toét thì nghiên cứu cái gì?
Vậy mà hôm nay, bằng mọi trò, từ viết bài,
trả lời phỏng vấn, xin chữ ký lập danh sách v.v… để từ việc bênh vực những cá
nhân phạm pháp như Lê Công Định, Hà Vũ, Phương Uyên, v.v… đến việc đưa “Kiến nghị lật pháp” lật đổ chế độ…,
Chi đều ở trên tuyến đầu kích động làm loạn, gây nguy cơ cho an ninh quốc
gia. Đặc biệt lợi dụng dư luận chú ý đến dự án Bô-xít, Chi đã lập ra trang Bauxite Việt Nam nhân danh một trang
phản biện, nhưng với trí thấp tâm tối, trang Bô-xít này đã nhanh chóng trở
thành một đống rác, bốc mùi bọ xít. Phải chăng, như nhiều kẻ từng được hưởng
nhiều danh lợi của chế độ nhưng tham vọng chưa thỏa, ghen ăn tức ở, Huệ Chi
cũng là một điển hình của loại người ăn cháo đá bát?
Quay lại bài Huệ Chi trả lời phỏng vấn về
nhân cách:
“PV: “Người
có nhân cách là người như thế nào, thưa
Giáo sư?
Giáo sư Nguyễn Huệ Chi: - Người có nhân cách phải thể hiện nhân cách
ấy ra ngoài bằng một thái độ sống nhất quán và bằng những hành động cho thấy
chỗ đứng trước sau như một của anh trong xã hội; nó đóng góp một phần nào đó
vào nền tảng đạo lý của cộng đồng. Người có nhân cách đòi hỏi phải tiếp nối
và giữ vững được đạo lý truyền thống của dân tộc để không làm gì phức tạp
thêm cho xã hội, trái lại làm điểm cố kết cộng đồng xã hội, nhất là trong bối
cảnh hiện nay. Đối với một trí thức thì điều đó là quan trọng hàng đầu, chứ
không phải là kho kiến thức trong anh.
…
PV: - Loài vật cũng có những quan hệ với nhau rất tử tế, hòa thuận… Đấy có
phải là chúng cũng có nhân cách?
Giáo sư Nguyễn Huệ Chi: - Bầy đàn trong loài vật có khác so với loài
người. Là ở chỗ loài vật lấy sức mạnh làm chính. Con vật nào mạnh thì sẽ
thắng con khác và đứng ra thống trị bầy đàn. Con người thì không thế. Ai có
trí tuệ cao và đạo đức sống quy tụ được đông đảo người khác thì người ấy mới
thắng. Chính cái trí tuệ vượt người gắn liền với đạo đức nhất quán ấy nó góp
phần hình thành nên một xã hội sống có nguyên tắc, có đạo lý, và làm cho nhân
cách trong xã hội nẩy nở và nhân rộng. Xã hội càng phát triển về mặt nhân văn
thì nhân cách con người càng được tôn trọng”.
Nhân cách là phẩm chất của con người, có tốt
có xấu, nhưng nhiều khi người ta dùng với nghĩa mặc định là tốt, và trong bài
phỏng vấn trên, nhân cách được chỉ là tốt.
Nếu nói chung chung thì ông GS hót khá hay,
vô vàn người cũng nói được như vậy. Có điều nếu hiểu được thế nào là “đạo
lý”, “trí tuệ”, “đạo đức” thì những năm gần đây, ông GS đúng là đã “nhất
quán”, “trước sau như một”, hành động ngược lại tất cả.
***
Theo ngôn ngữ shô-bit hiện nay, Huệ Chi đầu
tiên là nổ, bằng việc vạch áo thầy Cao Xuân Huy cho thiên hạ xem lưng để đánh
bóng tên tuổi, đã xuất bản những bản nháp với những nhận thức rất sai lầm về
khoa học và triết học của cụ Cao Xuân Huy. Tiếc là trình độ về triết học và
KHTN của giới khoa học xã hội ở ta rất hạn chế nên việc làm của Huệ Chi đã
thành công rực rỡ. Lúc đầu tôi không quan tâm, vì một người bằng tuổi ông nội
tôi như CXH thì có được tôn vinh sai một tí cũng không sao. Nhưng rồi chính
Nguyễn Hòa, giờ làm khá to ở Báo Nhân Dân, đã nhờ tôi và Đỗ Kiên Cường (hai
người biết về KHTN) “đánh” cụ CXH.
Với tôi, dù cụ CXH, Huệ Chi và bao ông GS,
PGS khoa học xã hội khác sai về Thuyết Tương đối và triết học duy vật biện
chứng thì cũng là lẽ thường. Cái bất thường ở đây chính là cái tham vọng và
cái tâm đen của vị GS Huệ Chi nhân danh khoa học và triết học.
Ngoài những sai lầm mà tôi đã kể trong HUỆ CHI VÀ
RUỒI, BÒ, nay xin*VỀ
MỘT SỰ SO SÁNH KHIÊN CƯỠNG GIỮA EINSTEIN VÀ LÃO TỬ (TRAO ĐỔI VỚI NGUYỄN HUỆ
CHI).
Nguyễn Huệ Chi khi ca ngợi Cao Xuân Huy đã
viết: “Nếu từ trước tới nay chúng ta phân triết học thành duy vật và duy
tâm… thì dưới con mắt Cao Xuân Huy, cách phân chia như vậy… chưa đạt tới tầm
cao trong nhận thức bản chất vũ trụ, và xét cho cùng không tránh khỏi vi phạm
lô-gic. Trên bình diện nhận thức luận mà nói, nhà triết học phải hiểu biết thế
giới như một thực thể toàn vẹn không chia tách, trong “tâm” có “vật”, trong
“vật” có “tâm”. Nếu tách “vật” ra khỏi “tâm” thì làm sao “tâm” biết được
“vật”…?”
Đây là quan niệm sai hoàn toàn, phản cả
triết học Mác nói chung và Chủ nghĩa duy vật biện chứng nói riêng; phản cả
khoa học và phản cả thực tế.
Ngày nay khi người ta có thể sáng chế ra các
sản phẩm điện tử có thể tắt mở được bằng ý nghĩ đã chứng tỏ “tâm” là ý nghĩ
được sinh ra từ não, đã rời khỏi não, có vậy mới tới và tác động được vào con
mắt quang điện của vật dụng.
Còn chuyện “tâm” biết được “vật” như Huệ Chi nghĩ ở trên cũng sai hoàn
toàn. Các cụ đã nói “Dao sắc không gọt được chuôi”, giống như
dù tinh đến mấy ta cũng không thể nhìn thấy gáy của mình, việc cho “tâm”,
“vật” phải nhập vào nhau thì “tâm” mới thấy “vật” là nói
ngược. Trong thực tế, muốn nhìn thấy bất cứ vật gì phải có khoảng cách nhất
định, tùy thuộc thủy tinh thể điều tiết tiêu cự của mắt sao cho ảnh của vật
hiện đúng võng mạc, tế bào thần kinh thị giác mới nhận được và chuyển thành ý
thức về hình ảnh, tức là “tâm”. Còn cái lập luận của Cao Xuân Huy cho
chúng ta chỉ có thể “trực giác được sự
tồn tại của một vật nào đó là vì cái bản thể, cái tồn tại phổ biến ở trong
vật đó cũng chính là cái bản thể, cái tồn tại phổ biến ở trong ta” thì
tại sao trong tối cái bản thể còn nguyên đó, sao ta vẫn không “trực giác” thấy gì? Và chắc những người
bị khiếm thị sẽ là chứng nhân sống động nhất phản bác cái quan niệm đó!
Chính vì trí thấp, không hiểu được những tri
thức khoa học phức tạp nhưng lại giàu ảo tưởng, tự tôn, nên Huệ Chi đã tuyên
bố: “học thuyết tương đối của Einstein
rọi sáng cho cả một thời đại mới: thời đại “giải lý tính” (dérationnel) của
nhận thức khoa học”. Với tôi, nói
vậy thì Huệ Chi thực là đại ngu theo nghĩa đen chứ không phải như ý nghị
Phước nói nghị Quốc một cách chữ nghĩa!
Theo Từ điển Triết học, lý tính là cấp độ nhận thức cao hơn lý trí, có tính sâu sắc và toàn diện hơn về sự vật và sự việc.
Với Kant, nhà triết học Đức, mà
các công trình chính của ông chủ yếu là phê
phán (Kritik-tiếng Đức; Critique –
tiếng Anh) lý tính (Vernunft-
tiếng Đức; Reason- tiếng Anh). Reason theo từ điển Anh – Việt là lý trí, lý, lẽ phải.
Phê
phán lý tính theo ý của Kant có nghĩa là chỉ ra giới hạn của nó. Theo
Kant, cái "vô điều kiện" (das Unbedingte) và cái "tuyệt đối
(das Absolute) trong những quan niệm siêu nghiệm (transzendentale Ideen) như
sự bất tử (Unsterblichkeit) của linh hồn;
sự vô tận của vũ trụ (Kosmos) và Thượng Đế (Gott) thì ngoài tầm với của lý tính.
Kant cũng cho lý tính, về bản chất, có tính antinomi, tức là tách đôi thành
các mặt đối lập (theo từ điển triết học), vì vậy ông cho : “…có những vật nằm ngoài chúng ta như những đối
tượng của các giác quan; chúng ta không biết được gì về việc chúng có khả năng
tự thể là gì, mà chỉ biết được các hiện tượng của chúng”
(Kant, lời nói đầu (1783), p.62-63).
[… es sind uns Dinge als außer uns
befindliche Gegenstände unserer Sinne gegeben, allein von dem, was sie an
sich selbst sein mögen, wissen wir nichts, sondern kennen nur ihre
Erscheinungen (Kant, Prolegomena
(1783), S.62-63)]
Vậy
theo Huệ Chi, phát minh của Einstein
đã rọi sáng cho thời đại “giải lý tính” thì là thời đại gì?
Rồi theo sự dẫn lối đưa đường của cái tà đạo
đó, Nguyễn Huệ Chi đã rút ra “Ý nghĩa
của cuộc đấu tranh phát huy tương đối luận” như sau:
“Chúng
ta đã từng rút được không ít bài học thấm thía về sự cả tin vào ý chí của một
thời vốn được mệnh danh là “thời đại cách mạng lay trời chuyển đất” … khi ta
mơ ước chân thành mà cũng có phần nông nổi về lý tưởng tối hậu của cuộc đấu
tranh giai cấp giữa giàu và nghèo … Nhưng kết cuộc … Cái giàu bị tiêu diệt
nào ngờ cái nghèo càng nghèo thêm”
Nếu đối chiếu với thực tế, từ năm 1945 ta 2
triệu người chết đói đến những năm trước đổi mới bo bo cũng thiếu ăn, chúng
ta được như hôm nay mà Huệ Chi viết “nào
ngờ cái nghèo càng nghèo thêm”, nói cho gọn là một sự xuyên tạc trắng
trợn!
***
Nói về nhân cách Huệ Chi không thể không
tham khảo ý kiến của những người cùng lứa, cùng nghề, hiểu rất rõ tông tích
Huệ Chi. GS
Mai Quốc Liên đã cho Huệ Chi là Vu cáo chính
trị, mập mờ học thuật. Còn GS Nguyễn Đình Chú qua bài GS Nguyễn
Đình Chú tranh luận về học thuật với Nguyễn Huệ Chi đã cho Huệ Chi
với tư cách chủ biên đã lờ đi “công phu
sưu tầm dịch thuật Thơ văn Lý – Trần của nhạc phụ tôi” là cụ Nguyễn Ðức
Vân.
***
Với tôi, nếu có những chuyện trên, nếu ai có
khả năng chỉ dạy cho tôi biết tôi sai như tôi đã chỉ cho Huệ Chi, tôi sẽ bỏ
bút ngay. Như Huệ Chi tôi sẽ lui ngay về ở ẩn, giấu cái mặt lem luốc của mình
đi, còn kiếm sống thì có thể mở lớp dạy chữ nho cho những đứa trẻ nào có ý
muốn làm nghề đọc văn bia, hay thư tịch cổ. Lượng người biết chữ nho xem
chừng sắp tuyệt rồi. Còn với tầm như vậy, tâm như vậy, lại muốn làm những
chuyện động trời về chính trị xã hội ví như dời non lấp biển thì thật là liều
mạng. Với nhân cách đúng là “trước sau
như một”, từ việc xả rác tri thức đến những hành động quấy rối, thành
tích gây bất ổn xã hội của Huệ Chi xem chừng đến Hà Vũ cũng phải gọi bằng bố!
3-7-2013
|