ĐÔNG
LA
Kỳ
thi vào đại học
TRUYỆN LIÊN QUAN:
Hòa bình về, trong niềm vui chiến thắng lớn lao ở trong tôi có
một phần không nhỏ ước mơ được vào trường đại học.
Dạo ấy tôi đã được chuyển lên ban tham mưu của trung đoàn, làm
đồ bản (vẽ bản đồ), được ở cùng phòng với ông đại úy tham mưu trưởng tên là
Thập. Đơn vị tôi đóng quân ở Biên Hòa. Những lần đi qua một trường cấp III,
tôi luôn dán mắt vào cái không khí sôi nổi của những buổi tan trường, vào
những tà áo trắng tinh khiết tuôn ra các ngõ phố.
Một hôm tôi vô cùng sung sướng khi biết tin: tất cả những ai
có bằng tốt nghiệp phổ thông đều được tập trung trong trường văn hóa của quân
khu để ôn thi vào đại học. Tuy đã gián đoạn 3 năm, nhưng không hề gì, tôi sẽ
tích cực ôn thi với tinh thần và quyết tâm của một người lính chiến từng vào
sinh ra tử. Tồi liền viết thư về nhà nói cha tôi kiếm sách giáo khoa gởi vào
cho tôi. Một hôm, tôi đứng trên ban công nhìn xuống sân doanh trại thấy anh
Lưu, ông anh họ gọi cha tôi là cậu, tay xách một chồng sách. Tôi vội chạy
xuống, anh Lưu bảo:
- Đây là sách cậu nhờ anh mang vào cho em.
Tôi mừng khôn xiết. Anh Lưu cũng bộ đội, hơn tôi 5 tuổi, đang
đóng quân ở Sài Gòn.
Nhưng thật oái oăm, ông Thập tham mưu trưởng, đang thương tôi
như em út, khi thấy tôi xin đi ôn thi đại học lại tỏ ra giận dỗi. Hình như
ông ấy không muốn xa tôi. Thế là, thay vì cho tôi đi tập trung ôn thi, ông ấy
lại bắt tôi đi phát rẫy ở bên sông Đồng Nai. Tôi ức đến trào nước mắt nhưng
biết làm sao được! Đành ôm đống sách về rừng, sau những buổi phát rẫy máu tóe
ở hai bàn tay, người thì đau ê ẩm, tôi lao vào ôn tập. Tôi học thuộc tất cả
các định lý, các công thức và giải các bài mẫu. Tôi cũng tìm hiểu tất cả các
đề thi vào đại học cũng như các đề thi học sinh giỏi. Cái tự tin của một
thằng bé học trò bướng bỉnh ngày nào lại dần dần trở về trong tôi. Tôi có
tính tự chủ rất cao, suốt cả quãng đời đi học, đứa nào không hiểu bài hỏi tôi
thì hỏi, còn tôi không bao giờ hỏi ai, kể cả thầy cô giáo. Với những cái khó,
tôi tự tìm hiểu kỳ được thì thôi. Có lẽ vì thế mà sau này nhiều lĩnh vực tôi
không cần học cũng biết chăng? Ôn tập được một thời gian, thấy có vẻ ổn, tôi
viết một lá thư cho ông tham mưu trưởng. Tôi không ngờ, khả năng văn chương
đã tiềm ẩn sẵn trong máu mà nào có biết. Tôi đã kể chuyện phát rẫy chảy máu
tay, nắng miền Đông trên đồi rất gắt, cổ họng tôi khô cháy, nhưng có mấy quán
bán kem ngoài lộ mà tôi không có tiền mua. Tôi đã xin tiền ông tham mưu
trưởng để mua kem. Tiếp theo tôi kể hồi nhỏ tôi học giỏi được thầy chủ nhiệm
lớp đến nhà chơi, kể cái kỳ vọng của ông nội theo cái lý thuyết huyền bí năm
sinh tháng đẻ “Niên cốt Nguyệt bì” của ông, mà theo đó, tôi “da dê lại bọc
xương dê” là vừa khít, là sẽ “khác người”… Không ngờ ông tham mưu trưởng đã
khóc và lệnh cho tôi: “Không phát rẫy nữa, về đi thi”!
Thật may, thời hạn nộp hồ sơ chỉ còn có mấy ngày.
Đến lúc này thì tôi đã đủ tỉnh táo và hiểu biết để lựa chọn
một hướng đi phù hợp với sở thích của mình. Tôi nhớ đến cuốn sách mà tôi được
thưởng trong kỳ thi “kiện tướng nhớ từ” ngày nào. Cuốn sách kể về cuộc đời
những nhà bác học đã ảnh hưởng rất nhiều đến thiên hướng của tôi. Trong hai
trường đại học: Tổng hợp và Bách khoa mà tôi dự định thi, tôi vẫn thích
trường Tổng hợp hơn. Trường đại học Bách khoa là trường đào tạo cán bộ kỹ
thuật thực hành, rất nhiều học sinh ham thích, nhưng tôi lại thích công việc
nghiên cứu, công việc tìm kiếm những cái chưa biết, vì thế trường Tổng hợp
mới là trường phù hợp với tôi hơn. Mỗi khi xem ti vi thấy những cán bộ nghiên
cứu mặc áo choàng trắng say mê bên những dàn dụng cụ thí nghiệm bằng thủy
tinh trong suốt, lòng tôi luôn dậy lên một nỗi niềm xốn xang.
Tôi trở về nơi đóng quân ở thị xã Biên Hòa, rồi đi Sài Gòn nộp
hồ sơ. Hồi ấy, các khoa tự nhiên của trường Tổng hợp còn là trường Đại học
Khoa học. Đến trước cổng trường có hàng chữ to tướng “Khoa Học đại học
đường”, tôi rất bỡ ngỡ. Nhìn bộ quân phục còn vương bụi đỏ và khét mùi khói
rẫy, tôi cảm thấy rất ngượng trước khung cảnh trăm hoa đua sắc của sinh viên
đại học. Nhưng rồi cuối cùng tôi cũng nộp được hồ sơ cho phòng tổ chức.
Rồi ngày thi đã đến. Tôi được xếp thi tại trường Phan Sào Nam, ngã bảy.
Vì chưa đi trọ bao giờ, cũng chưa biết ai là thân thích, nên tôi tính ở liều ngay
trước cổng trường. Mấy năm đánh nhau khổ thế còn chịu được, huống hồ có ba
đêm ngủ ở hè phố. Nhưng đúng như có một sự xếp đặt huyền bí, mà đời tôi sau
đó còn có mấy lần như vậy nữa: tưởng đã cùng đường thì tự nhiên có người đứng
ra cứu giúp! Một anh chàng cũng là lính đi dự thi tên là Hoan, thấy tôi bơ vơ
trước cổng trường, đã hỏi:
- Mày không có nhà trọ phải không? Tao trọ nhà người quen ở Lý
Thái Tổ gần đây, đến ở với tao đi.
Như buồn ngủ vớ được chiếu manh còn gì mừng hơn. Tôi theo Hoan
về nhà người thân, leo lên căn phòng nhỏ trên sân thượng, góc có tiểu cảnh và
một bức tượng Đức Quan Âm mầu trắng rất đẹp. Tối ấy, tôi và Hoan đấu toán với
nhau. Anh chàng chuyên toán, dân Nghệ An chịu khó, quả là đối thủ đáng gờm.
Nhưng rồi anh chàng đã trượt vì chỉ làm được môn toán thôi.
Khi trời sáng, học sinh từ các ngả lũ lượt đổ vào trường thi.
Tôi chia tay Hoan vào phòng thi có tới 24 thằng nữa cùng tên với mình. Dù rất
tự tin nhưng tôi vẫn không khỏi hồi hộp khi thấy những đối thủ học sinh phổ
thông của mình, mặt còn non choẹt, đã xệ trên đôi mắt những cặp kính cận dầy
cộp.
Chúng tôi thi môn toán đầu tiên. Từng là một học sinh giỏi
toán tôi vẫn không khỏi toát mồ hôi hột khi chép đề. Toán học cần tư duy hệ
thống. Sau hơn ba năm rời sách vở, đối diện với bom đạn, chết chóc, làm sao
mà tôi không quên điều này điều nọ, cái mạch tư duy toán làm sao không có đôi
chỗ đứt đoạn. Một lúc sau tôi mới định thần lại được, rồi tập trung vào làm
bài. Mới hết ba phần tư giờ, bỗng có một chuyện làm tôi vô cùng hoảng hốt:
tất cả học sinh trong phòng tôi đã nộp bài hết, làm phòng thi chỉ còn trơ lại
một mình tôi. Tôi luống cuống như một kẻ bị rượt đuổi sắp bị bắt. (Sau đó tôi
mới biết chương trình hệ 12 năm của SG cũ học toán rất cao). Đến giờ nộp bài,
tôi chỉ làm hoàn thiện được khoảng 80% đề thi. Tôi nghĩ, so với những đấu thủ
tài giỏi như vậy thì chắc chắn mình sẽ bị thua mất.
Đến chiều chúng tôi thi lý. Tôi đã nộp bài cùng với các thí
sinh khác, làm bài cũng hơn môn toán chút ít. Tôi đã thất vọng. Tôi là thằng
học trò luôn tự tin, nhiều người còn nói có phần kiêu ngạo nữa, thế mà trước
những đấu thủ đeo kính cận dầy cộp lần này, tôi cứ thấy mình yếu đuối thế nào
ấy. Còn môn hóa cuối cùng, liệu tôi có làm bài tốt hơn không? Nếu tôi thất
bại thì còn mặt mũi đâu mà gặp lại ông tham mưu trưởng được nữa. Tôi tự xỉ vả
mình: “Học hành như vậy mà cũng đòi đi thi!”.
Rồi buổi sáng hôm sau môn thi hóa bắt đầu. Khi thầy giáo mới
đọc lướt đề thi, tôi đã phấn chấn vô cùng. Quả thực, môn hóa vẫn là sở trường
của tôi. Chưa hết nửa thời gian tôi đã làm gần xong đề thi. Chỉ còn lại phần
đòi hỏi sự sáng tạo của mỗi thí sinh, tôi cắn bút suy nghĩ. Từ những điều đã
học tôi mạnh dạn đưa ra những suy luận, áp dụng cho việc xác định cấu trúc
của một chất mà tôi chưa hề biết đến. Và, tôi đã mạnh dạn viết vào bài làm
của mình. Xong xuôi, tôi xin phép ra ngoài, rửa mặt mũi tay chân rồi trở lại
chỗ ngồi ung dung xem lại bài. Thấy lạ, người cán bộ coi thi đã đến bên tôi
kiểm tra ngăn bàn xem có tài liệu gì không, và tất nhiên anh không thấy gì
cả. Tôi đã nộp bài thi đầu tiên trước sự ngạc nhiên của cả cán bộ coi thi lẫn
các thí sinh trong phòng. Khi tôi ra về, người giám thị đã tiễn tôi ra cửa và
nói:
- Tôi rất mong và tin là sẽ được gặp lại anh trong trường đại
học khoa học của chúng tôi.
Điều đó đã trở thành sự thật, và sau này tôi biết người ấy
chính là sinh viên năm cuối ở Khoa Địa chất.
Tôi đã trở về đơn vị với vẻ mặt hốc hác sau một kỳ thi đầy
căng thẳng. Khi tính toán lại bài thi, tôi tin là mình sẽ đậu. Tôi đã viết
thư cho cha tôi nói thẳng như vậy. Quả đúng như thế. Một thời gian sau đó,
trên trang tư của tờ Sài Gòn Giải phóng đã đăng tên và số báo danh của tôi
trong danh sách thí sinh trúng tuyển vào Đại học Khoa Học. Tôi đã mua tờ báo
ấy với một niềm vui không kém bất cứ niềm vui nào mà tôi đã được trải qua.
Trước khi vào học, tôi đã được về phép gặp lại quê hương thân
yêu của mình. Tôi đã mang theo về một niềm tự hào của một người đã vượt qua
được những thử thách nghiêm ngặt nhất. Thử thách ác liệt trong chiến tranh và
thử thách về trí tuệ của một kỳ thi. Giống như cha tôi, sau khi tham gia
Chiến dịch Điện Biên ông cũng đã được đi học Y sĩ. Giờ nghĩ lại, thì ra ông
là người có trình độ Tây y đầu tiên và cao nhất ở vùng quê tôi. Vùng quê mà ở
lứa tuổi ông còn rất nhiều người mù chữ, trong đó có người mẹ kính yêu của
tôi!
Tôi đã được gặp lại cha mẹ và anh em. Ông tôi đã mất, nhưng
tôi tin là mình đã làm hài lòng ông. Đêm đêm, tôi đã lần tìm từng gốc cây
nhãn, gốc cây ổi… để gặp lại những kỷ niệm thời thơ ấu. Tôi đã giở lại những
trang vở, mà bên cạnh những công thức toán học, có cả những bức vẽ xe tăng,
máy bay và những ông tướng ngực đầy huân chương ngày nào…
Viết tại Phú Nhuận
1986
|