Với tôi bênh vực những hiện tượng
khách quan, những việc làm tâm đức của những người có những giác quan đặc
biệt, giao tiếp được với các linh hồn người đã chết mà truyền thông gọi là
“nhà ngoại cảm”, hoàn toàn không phải vì tiền, không vì băng nhóm hay vì bất
cứ một điều gì khác, mà với tư cách là một người nghiên cứu hóa học, từng
đoạt giải A Sáng tạo KHKTTPHCM 1993, từng tạo ra được một dòng sản phẩm được
lưu hành và còn bị người ta bắt chước làm theo trên thị trường và là một
người nghiên cứu lý luận cũng từng được tặng thưởng của TC Văn Nghệ Quân đội
và Giải thưởng của LH các Hội VHNTVN, tôi coi trọng về mặt nhận thức hơn, coi
trọng hiện tượng khả năng ngoại cảm là có thật hơn. Như vậy có nghĩa là có
tồn tại linh hồn, có tồn tại một cõi âm như bao đời cha ông ta đã đối xử với
những nghi lễ cung kính trong đời sống. Còn chuyện cao thấp, tỷ lệ đúng sai, lừa
đảo hay không, tôi cũng quan tâm, nhưng những cái đó chính là thuộc về lĩnh
vực thống kê và hình sự. Tiếc là có một thời khi chế độ mới ra đời, theo lý
tưởng của Chủ nghĩa Mác-Lênin, nhưng với sự ấu trĩ, giáo điều, chúng ta đã có
nhận thức không đúng dẫn tới những hành động ứng xử không đúng với thế giới
linh thiêng. Tôi sinh ra trong giai đoạn này, lại ham thích khoa học tự nhiên,
nhưng lại có sự nhạy cảm của người có khiếu về văn chương, nên dù có nghiêng
về phía “duy vật” nhưng tôi vẫn không thể không chú ý những hiện tượng tâm
linh xuất hiện ngay trong làng quê tôi. Đến nay, từ khi các hiện tượng ngoại
cảm xuất hiện trong việc đi tìm mộ liệt sĩ rồi đến khi gặp và nghiên cứu cụ
thể về khả năng của cô Vũ Thị Hòa, tôi khẳng định rằng, thế giới linh thiêng
là có thật. Thế giới ấy là hiện thực khách quan mà các giác quan của người
thường không thể nhận biết và các thiết bị tối tân nhất của khoa học cũng
không thể nhận dạng, đo, đếm được! Thế giới đó cũng là một dạng vật chất vô
hình, giống như trong vật lý cũng phát hiện ra vật chất tối vậy. Như vậy, hóa
ra những người tin tưởng thế giới đó luôn bị cho là mê tín, duy tâm thì chính
lại là người tỉnh tín và duy vật, và ngược lại!
Tuy nhiên hiện tại giữa những
người tin và không tin hiện tượng ngoại cảm vẫn chưa phân thắng bại. Giới tu
hành, theo Hòa thượng Thích Thanh Duệ, Viện trưởng Phân Viện Nghiên cứu Phật
học Việt Nam: “Sau 49 ngày,
phần hồn ấy sẽ được quyết định là đầu thai vào nơi này hay nơi khác. Khi thần
thức của con người đã chuyển tiếp rồi thì nó không thể trở lại nói chuyện
được với các nhà ngoại cảm nữa”. Trước đây tôi cũng đã biết như vậy,
nhưng với thực tế ngoại cảm VN, mà thực tiễn lại là tiêu chuẩn kiểm tra chân
lý, nên tôi đã phải suy xét lại. Lĩnh vực có nét tương đồng là thôi miên,
ThsS Nguyễn Mạnh Quân cũng tuyên bố: nếu nhà ngoại cảm nào tìm mộ liệt sĩ đúng 3%, thì anh ta sẽ dâng cho
họ toàn bộ tài sản, danh dự, cả Viện nghiên cứu ứng dụng khoa học thôi miên
của anh ta. Còn nếu họ tìm không đúng 3%, thì anh ta sẽ cắt lưỡi nhà ngoại
cảm! Nếu Nguyễn Mạnh Quân “quân tử nhất ngôn”, từng chứng kiến
việc tìm mộ LS của cô Vũ Thị Hòa như ông Nguyễn Phúc Giác Hải, người có thâm
niên nghiên cứu ngoại cảm từng tuyên bố cô tìm đúng 100%; như ông Vũ Văn Hiền,
nguyên UVTWĐ; như Nhà thơ thần đồng Trần Đăng Khoa; v.v… thì Nguyễn Mạnh Quân chắc chắn sẽ mất toi tài sản,
và theo tôi nên mang theo con dao, tự cắt lưỡi mình.
Đặc biệt trong
lĩnh vực khoa học tự nhiên là khoa học chính xác cũng có sự tin tưởng ngược
nhau. Tiến sĩ Vật lý Nguyễn Văn Khải, em VS Nguyễn Văn Hiệu lừng danh, từng
nói: "Năng lượng của con người thì
có, nhưng cái gọi là ngoại cảm thì riêng tôi, tôi không bao giờ tin, nó chỉ
là vớ vẩn mà thôi". TS Vũ Bằng, thường được gọi là ông "tia
đất", cho rằng: “bộ não đã bị huỷ hoại thì đâu còn có thể tạo ra tư
tưởng, ý thức, sáng tạo của con người được nữa. Không có linh hồn thì làm gì
có đối tượng để nhà ngoại cảm mời, nói chuyện... Việc bảo là ngoại cảm để đi
tìm mồ mả, hài cốt liệt sĩ chỉ là kịch bản, bịa đặt… nhà ngoại cảm cứ đi tìm
những mồ mả … nhưng thực chất là lừa bịp”. Ngược lại, cũng có những nhà khoa học
nổi tiếng tin tưởng ngoại cảm. GS. VS. Đào Vọng Đức, nguyên viện
trưởng Viện Vật lý, nguyên giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Tiềm năng Con người,
không chỉ tin mà còn là người khai phá mở đường công việc nghiên cứu thế giới
linh thiêng. PGS.TS Thiếu tướng Ngô Tiến Quý, nguyên
Viện trưởng Viện Khoa học Hình sự - Bộ Công an, người trực tiếp chỉ
huy việc giám định hài cốt Nhà văn Nam Cao, đã phát biểu trên VTV là “khả năng ngoại cảm của con người là có
thật”. Đặc biệt PGS. TS. Hà Vĩnh Tân, Viện Vật lý, một nhân chứng sống trong
việc tìm được hài cốt người thân bằng ngoại cảm, một lãnh tụ cách mạng, đó chính
là cố TBT Hà Huy Tập!
Nếu những người
trên vì có dính líu đến ngoại cảm có thể bị cho là không khách quan nhưng một
nhà toán học rất có uy tín là GSTSKH Đào Trọng Thi, cựu Giám đốc Đại học Quốc gia Hà Nội, nguyên Ủy viên TWĐ, Chủ
nhiệm UB Văn hóa Giáo dục Thanh thiếu niên và Nhi đồng Quốc hội, từng trả lời
phóng viên báo Tiền Phong khiến tôi bất ngờ là: “Trước hết, phải nói hiện tượng ngoại cảm, khả năng ngoại cảm là có
thật. Người có khả năng dùng ngoại cảm để giúp đỡ một số việc là tốt”.
Giới thiệu tổng quát đôi nét
trên đây mục đích là tôi muốn đăng lại một loạt bài đã viết về “con nhà báo ngu dốt lưu manh” Thu Uyên
để những ai quan tâm hiểu thực chất vấn đề ngoại cảm. Hôm nay nhân bàn về các
nhà khoa học với ngoại cảm, tôi đăng lại bài nói về ông GS Nguyễn Lân Dũng qua
việc ông nói trên VTV: “Chết là
hết” và “không có luật nhân quả”.
14-102014
ĐÔNG LA
|
ĐÔNG LA
GS NGUYỄN LÂN DŨNG KHÔNG TIN ĐẠO PHẬT
Hôm
nay xem VTV1 thấy ông GS Nguyễn Lân Dũng, khi trả lời BTV chương trình đọc
sách, nói rằng vì ông là một nhà khoa học nên ông cho rằng: “Chết là hết”
và “không có luật nhân quả”.
“Luật
nhân quả” là tư tưởng trung tâm của Đạo Phật, nói vậy nghĩa là ông GS không tin
Đạo Phật. Có điều có một nhà khoa học vĩ đại hơn cả tỉ tỉ lần ông GS là
Einstein lại đánh giá Đạo Phật có giá trị khoa học rất cao.
Vừa rồi cũng thấy VTV thông báo cô Thu Uyên được giải
đặc biệt trong Liên hoan Truyền hình về chuyện ngoại cảm. Trước khi được giải,
lẽ ra VTV và cô Thu Uyên phải trả lời chuyện cô trên VTV1 từng vu cáo hai nhà
ngoại cảm Phan Thị Bích Hằng và Vũ Thị Hòa là “lừa đảo”. (Nghĩa là cố Đại tướng
Võ Nguyên Giáp và Bộ Quốc phòng cũng sẽ là đồng phạm của Phan Thị Bích Hằng).
Nghe
nói nhà nước cũng đã có những quy định và có những phát ngôn của những người có
chức trách là “không được tin các nhà ngoại cảm”. Nhưng điều này mâu thuẫn với
thực tế vì đã có hàng chục vạn hài cốt LS được tìm với sự chỉ dẫn của các nhà
ngoại cảm, trong đó có các nhà cách mạng, và đặc biệt, có cả hai Tổng bí thư là
Trần Phú và Hà Huy Tập. Có những cuộc tìm kiếm được các cơ quan chức năng tổ
chức như một đề tài nghiên cứu và kết quả được các cơ quan khoa học giám định
chính xác, kể cả việc xác định ADN.
Một thời ấu trĩ chúng ta từng cho tất cả tôn giáo, tín
ngưỡng là mê tín. Ngọc phả Thành Hoàng làng tôi có ghi chuyện cụ Thành Hoàng là
Hoàng Trân, một bộ tướng từng theo Hưng Đạo Vương chống giặc Nguyên tại Vạn
Kiếp, đã xây chùa làng Đông La quê tôi. Bản Ngọc phả mà chính tôi đã nhờ Nhà
văn Hoài Anh dịch, có ghi: “Khi Lê Lợi dấy binh đánh quân Minh, xưng vương ở
Lam Sơn, sai tướng Nguyễn Xí đến hành lễ cầu đảo đại vương, đều có linh ứng. Khi
Thái Tổ lên ngôi liền phong tặng mỹ tự Khoát đạt Hồ quốc an dân thượng đẳng
phúc thần, sai quân về tế, cho trùng tu miếu điện ở Đông La, để thờ phụng,
lưu truyền muôn đời, cùng trời đất trường tồn”. Vậy mà ngôi chùa
linh thiêng ngài đã cho xây đó đã bị phá gần hết. Sau nhiều năm thì dân làng
chứng kiến những ai “góp sức” phá chùa đều gặp nạn. Vì thế những ai mang đồ ở
chùa về nhà dùng đều khiếp vía phải mang trả lại hết!
Một lần Nhà Ngoại cảm Vũ Thị Hòa gọi để cảm ơn chuyện
tôi viết về ngoại cảm đã nói về những người phỉ báng ngoại cảm: “Họ đã đạp lên
gai mà không biết đó anh ạ”!
Nhân dịp GS Nguyễn Lân Dũng không tin Đạo Phật, xin
trích lại đoạn trong bài tôi viết về Đạo Phật:
“Cuối cùng, tôi muốn viết thêm đôi điều
về mối tương đồng giữa đạo Phật và khoa học. Ở thời hiện đại này, khi nghiên cứu về Đạo Phật người ta đã nhận ra một
điều kỳ diệu là, đạo Phật không chỉ là những bài học luân lý, những triết lý
nhân sinh, mà còn là phương thức nhận thức về bản thân con người và thế giới,
tức có ý nghĩa y học và khoa học. Đức Thích Ca sau khi tu khổ hạnh sáu năm thất
bại, chính bằng Thiền định, chứng được tứ thiền, chứng lục thông, giải thoát,
giác ngộ đắc đạo thành Phật không phải là truyện thần thoại mà là hiện thực, và
có phương thức tu luyện. Những năng lực siêu nhiên như Thiên nhãn thông (nhìn qua khoảng cách, chướng ngại); Thiên Nhĩ Thông
(nghe được
mọi âm thanh); Tha Tâm Thông (biết được suy nghĩ của người khác); Túc mạng thông (nhìn thấy kiếp quá khứ
của mình và người khác) v.v… không
chỉ riêng Đức Phật có được, mà cùng thời, tôn giả Mục-kiền-liên, đệ tử hàng đầu
của Phật, cũng là bậc thần thông đệ nhất. Theo chuyện Ngạ quỷ, một hôm
Đại Đức Mục Kiền Liên vừa mới đắc được "Lục thông"… và do nhờ nhãn
thông mà thấy được các thứ ngạ quỉ… đến đảnh lễ Đức Thế Tôn và bạch qua câu
chuyện vừa thấy … Đức Thế Tôn nói rằng:
- Nầy các thầy Tỳ khưu. Các thứ ngạ quỉ nầy, Như
Lai từng thấy nhiều lần, nhưng không muốn đem ra nói cho ai, vì không bằng cớ
là không người thứ nhì cũng biết. … trước kia Như Lai không nói ra, vì nếu Như
Lai nói ra có nhiều người không tin cho rằng Đức Thế Tôn là một vị pháp vương,
muốn nói sao thì nói, không ai hiểu biết được…Nầy các thầy Tỳ khưu, các thứ ngạ
quỉ nầy xưa kia là những người trong xứ Ma Kiệt Đà đã làm những điều tội ác vậy"…
Không chỉ Tôn giả Mục Kiều Liên, nhiều thiền sư, đạo
sĩ dày công tu luyện cũng đã thành tựu những khả năng siêu nhiên như vậy, và
ngay thời hiện đại này, do nhiều cơ duyên khác nhau, đặc biệt do những biến cố
đặc biệt như tai nạn hoặc bệnh tật, một số giác quan của một số người phàm cũng
được khai mở, tạo nên những khả năng đặc biệt trong việc tìm mộ và trong các
hiện tượng tâm linh khác. Chính hiện tượng này đã mở ra nhiều chân trời mới của
nhận thức thực tại, thách thức cả nền khoa học hiện đại.
Tất cả các giáo lý của đạo Phật được xây dựng trên nền tảng thực chứng của đức
Phật, của các vị tu hành đắc đạo bằng con đường Thiền định, cũng có cơ sở khoa
học.
Những
thí nghiệm khoa học về Yoga cho thấy chỉ cần ngồi tư thế kiết già (thế
hoa sen), dù không cố gắng nhập định, vẫn có một sự thay đổi ở sóng não từ nhịp
Beta khoảng 20 chu kỳ mỗi giây xuống nhịp Alpha khoảng 8 chu kỳ mỗi giây. Nhịp
Alpha là tình trạng sóng não của một người trầm tĩnh và minh mẫn, nghĩa là tự
thân tư thế kiết già đã có công năng làm êm dịu thần kinh chưa kể đến những tác
dụng khác của việc ngồi thiền.
Kết
quả trên cũng phù hợp với những lý luận của y học cổ truyền khi ở thế kiết già,
xương mác ở cẳng chân trái đã tạo một sức ép khá mạnh lên đúng vị trí huyệt Tam
âm giao ở chân phải, là huyệt giao hội của 3 đường kinh âm: Tỳ, Can và
Thận nên tác động kích thích này sẽ có tác dụng "thông khí trệ",
"sơ tiết vùng hạ tiêu" và điều chỉnh những rối loạn nếu có ở những
kinh và tạng có liên quan, đặc biệt là tác dụng "Dưỡng âm kiện Tỳ" và
"Sơ Can ích Thận" mà các thầy thuốc châm cứu đều biết khi tác động
vào huyệt này. Như vậy, trong suốt thời gian ngồi kiết già, huyệt Tam âm giao
sẽ được kích thích liên tục. (Theo Lương y VÕ HÀ).
Như
vậy các vị thiền sư và võ sư, qua quá trình tu luyện công phu bằng thiền định
và khí công, đã diễn ra một quá trình biến đổi từ tâm lý đến sinh lý, đã làm
khởi phát những tiềm ẩn của cơ thể, tạo nên những năng lực siêu phàm.
Chính
bằng năng lực siêu phàm ấy, cách nay hơn hai thiên kỷ rưỡi, Đức Phật đã thấy
những điều mà nhiều nhà khoa học, với trí tuệ xuất chúng và những phương tiện
nghiên cứu tối tân nhất, mới thấy lại. Albert Einstein, nhà khoa học vĩ đại
nhất của thế kỷ 20, đã nói: “Khoa học mà thiếu tôn giáo là khập khiễng. Tôn
giáo mà không có khoa học thì mù quáng" (Science without religion is
lame. Reigion without science is blind) , ông đã phát biểu một câu rất nổi
tiếng về đạo Phật như sau:
“Tôn
giáo tương lai sẽ là một tôn giáo toàn cầu. Nó cần phải vượt trên một Thượng Đế
cá nhân và tránh những tín điều và lý thuyết. Tôn giáo ấy sẽ bao quát tất cả
phương diện tự nhiên lẫn tinh thần, nó cần phải được đặt trên cơ sở tín ngưỡng
cảm thấy và xuất hiện từ kinh nghiệm của mọi sự vật của tự nhiên cũng như tinh thần
như một tổng thể đầy ý nghĩa. Phật giáo trả lời được những diễn tả này.
Nếu có bất cứ một tôn giáo nào đó có thể đương đầu được với những nhu cầu của
khoa học hiện đại thì nó sẽ là Phật Giáo”.
(The
religion of the future will be a cosmic religion. It should transcend personal
God and avoid dogma and theology. Covering both the natural and the spiritual,
it should be based on a religious (tín ngưỡng, niềm tin) sense (cảm thấy)
arising(xuất hiện, phát sinh) from the experience of all things natural and spiritual
as a meaningful unity. Buddhism answers this description(diễn tả). If there is
any religion that could cope with modern scientific needs it would be
Buddhism).
Einstein
còn nói:
“PHẬT
GIÁO KHÔNG CẦN XÉT LẠI QUAN ĐIỂM CỦA MÌNH ĐỂ CẬP NHẬT HÓA VỚI NHỮNG KHÁM PHÁ
MỚI CỦA KHOA HỌC. PHẬT GIÁO KHÔNG CẦN TỪ BỎ NHỮNG QUAN ĐIỂM CỦA MÌNH ĐỂ CHẤP
NHẬN KHOA HỌC, BỞI VÌ PHẬT GIÁO BAO GỒM KHOA HỌC, ĐỒNG THỜI CŨNG VƯỢT QUA KHOA
HỌC”. (Buddhism requires no revision to keep it up to date with recent
scientific finding. Buddhism need no surrender its view to science,
becauseit embrances science as well as goes beyond science). (Từ: Collected
famous quotes from Albert Einstein. http://rescomp, stanford, edu/~ cheshire/
Einstein quotes.htm”). (Dẫn theo GS. Trần Chung Ngọc, bài “VÀI NÉT
VỀ: PHẬT GIÁO & KHOA HỌC”, Đông La dịch lại).
Trong
thực tế các khám phá của khoa học không mâu thuẫn với tư tưởng Phật Giáo, chưa
kể có những chỗ các tư tưởng Phật giáo còn đi trước khoa học khá xa. GS Trần
Chung Ngọc cũng cho “VÀI THÍ DỤ VỀ TƯ TƯỞNG PHẬT GIÁO ĐÃ ĐI TRƯỚC KHOA HỌC”: 1.Về
thế giới vô cùng nhỏ: đức Phật thường khuyên các đệ tử trước khi
uống nước hãy niệm chú để phổ độ cho các vi chúng sinh có trong nước vì ngài
thấy trong mỗi bát nước có tới 84000 sinh vật nhỏ mà mắt người thường không
nhìn thấy. Hơn 21 thế kỷ sau, năm 1595, các khoa học gia đã phát minh ra
cái kính hiển vi đầu tiên và mới thấy lại cái nhìn của Đức Phật. 2. Về
Thế Giới Vô Cùng Lớn: kinh Phật cho thấy thế giới
chúng ta đang sống không phải là duy nhất và cũng không phải là trung tâm, vũ
trụ còn có rất nhiều thế giới khác, phân thành 3 loại: Tiểu Thiên Thế Giới,
Trung Thiên Thế Giới, và Đại Thiên Thế Giới. Quan niệm này hầu như tương
hợp hoàn toàn với những kiến thức ngày nay của những nhà thiên văn hay những
nhà vật lý thiên thể. Một Tiểu Thiên Thế Giới có thể so sánh với một
thiên hà (galaxy). Một Trung Thiên Thế Giới có thể so sánh với một chùm
thiên hà (galactic cluster), và một Đại Thiên Thế Giới có thể so sánh với cái mà
Hannes Alfven gọi là siêu thiên hà (metagalaxy).
Trong
khi đó, Kinh Hoa Nghiêm, Bồ Tát Phổ Hiền bảo đại chúng rằng: "Chư Phật tử! Thế giới hải có nhiều hình tướng sai khác,
hoặc tròn....hoặc hình như nước xoáy... hoặc hình như hoa ... có vi trần số
hình sai khác như vậy”.
Rồi:
"Chư Phật tử tất cả các chủng đó hình
trạng đều khác nhau: hoặc hình núi Tu Di, hoặc hình sông, hoặc hình xoay
chuyển, hoặc hình xoáy nước, hoặc hình trục xe… hoặc hình hoa sen… có vi trần
số hình trạng như vậy”.
So
sánh với những khám phá của khoa học, Phật giáo đã mô tả vô cùng chính
xác. Chính do thiền định Đức Phật và các Đại Bồ Tát đã đạt lục thông, có
thiên nhãn, nên đã nhìn thấy và mô tả chính xác về vũ trụ như trên.
Quan
niệm nhìn vũ trụ một cách toàn ký (The holographic view of the
universe) bắt nguồn từ sự khám phá ra kỹ thuật chụp hình toàn ký (holography),
cũng đã khám phá lại một phần của một quan niệm rất quen thuộc trong Phật Giáo:
một là tất cả, tất cả là một. Điểm kỳ diệu của kỹ thuật toàn ký là, nếu
ta cắt tấm phim làm hai hay nhiều mảnh, thì mỗi mảnh nhỏ vẫn tạo ra nguyên hình
của vật được chụp. Trước đó rất lâu, kinh Phật đã ghi:
“Đức
Phật chỉ cho chúng sanh thấy rõ, các pháp hiện hành trong vũ trụ như hoa
trong gương, như trăng dưới nước. Tất cả vạn pháp đều từ tâm sanh.
Tất cả vạn hữu vũ trụ có thể nằm gọn trong hạt cải. Hạt cải có thể chứa
vạn pháp. Tất cả là một, một là tất cả. (Kinh Hoa Nghiêm)”.
24-12-2013