THAY
LỜI TÁC GIẢ
TRANG
LỊCH SỬ
Bài
1
SEN
TRONG BÙN
Thực tiễn của tổ quốc Việt Nam chúng ta
có thể ví như bùn lầy, bùn lầy của sự lạc hậu; từ lạc hậu đã sinh ra nghèo đói,
từ nghèo đói đã sinh ra nhược tiểu, từ nhược tiểu chúng ta đã trở thành nạn
nhân của lòng tham, nạn nhân của sự độc ác của những nước lớn, những nước phát
triển hơn đã xâm lược, đã tàn phá đất nước và giết chóc dân ta.
Trong đầm gì
đẹp bằng sen
Lá xanh bông
trắng lại chen nhị vàng
Nhị vàng bông
trắng lá xanh
Gần bùn mà
chẳng hôi tanh mùi bùn
Rồi nở trong thơ nhạc, trở thành biểu
tượng đẹp nhất, cao quý nhất, thanh khiết nhất để ví những con người đẹp nhất:
Tháp Mười đẹp
nhất bông sen
Việt nam đẹp
nhất có tên Bác Hồ
Và hôm nay, tôi thấy không gì “đắt” hơn
khi dùng hoa sen để ví lịch sử Việt Nam . Trong tăm tối của dốt nát
nghèo khó, trong hiểm nguy dầu sôi lửa bỏng, trong ác liệt của nhà tan, cửa
nát, của đầu rơi máu chảy; những con người Việt Nam bé nhỏ, chất phác lại có ý
chí làm tan chảy sắt thép của tất cả các loại vũ khí tàn bạo nhất; lại có trí
thông minh chiến thắng những chiến lược, chiến thuật, những vũ khí tối tân nhất
được xây dựng và chế tạo bởi những bộ óc siêu đẳng và nền khoa học công nghệ
tiên tiến nhất.
Theo lẽ thường, khi học hết phổ thông,
người ta phải hiểu được những nét chủ yếu về lịch sử đất nước. Nhưng lại có một
thực trạng rất e ngại đó là việc có rất nhiều học sinh trong các kỳ thi đã được
điểm 0 môn sử; và còn kỳ quái hơn nữa, có những kẻ thuộc tầng lớp có danh
tiếng, muốn hơn người, khác thường, họ đã lập danh thành công bằng cách
nhìn lộn ngược lịch sử. Vì vậy trước tình trạng “trống không” và “lộn ngược”
đó, tôi lại phải bỏ chút công sức dạy cho họ vài nét chính yếu, bài học i tờ về
lịch sử của đất nước chúng ta.
Người viết nên những trang sử đầu tiên
trong công cuộc bảo vệ Tổ quốc thân yêu của chúng ta chính là An Dương Vương.
Với thời gian trị vì từ 257 TCN đến 208 TCN (theo Đại Việt sử ký toàn thư), dân Việt ta dưới sự lãnh đạo của ngài đã
tiến hành cuộc chiến 10 năm đánh thắng giặc Tần xâm lược, giết chết tướng Đồ
Thư.
Tiếp theo, đất nước ta như chìm trong đêm
trường của kiếp nô lệ, đến hết thời Bắc thuộc lần thứ III (207 TCN – 905),
trong suốt 1112 năm, dân ta chỉ được làm chủ Tổ quốc của mình có 64 năm. Trong
màn đêm ngàn trùng ấy, thật kỳ diệu, vẫn cháy bùng lên được những đốm lửa lung
linh của khí phách Việt. Và kỳ lạ hơn nữa, trong mấy danh nhân được ghi vào
bảng vàng chói lọi của lịch sử dân tộc lại có tên đến ba người phụ nữ. Họ
đúng là những bông sen bất tử, ngát hương, mãi mãi lan tỏa theo thời gian. Năm
40, bà Trưng Trắc cùng em gái là Trưng Nhị đã nổi binh đánh thành Luy Lâu đuổi
Thái thú Tô Định, lên ngôi Trưng Nữ Vương. Sau hơn 200 năm, bà Triệu (Triệu Thị
Trinh) cùng anh là Triệu Quốc Đạt cũng đã khởi binh chống giặc Đông Ngô, chiếm
Tư Phố. Người con gái kiêu hùng ấy, khi mới 19 tuổi, đã nói câu nói như tạc
vĩnh viễn vào thời gian: “Tôi chỉ muốn
cưỡi cơn gió mạnh, đạp luồng sóng dữ, chém cá kình ở Biển Đông, đánh đuổi quân
Ngô, giành lại giang sơn, cởi ách nô lệ, chứ không chịu khom lưng làm tì thiếp
cho người!”
Năm 542, Lý Bí, một giám quân
ở Đức Châu (Hà Tĩnh), đã tạo thanh thế khiến cho Thứ sử Tiêu Tư nhà
Lương phải khiếp vía mà trốn chạy. Khi Tôn Quýnh, Lư Tử Hùng đem quân sang, Lý
Bí đã chủ động đón đánh tại Hợp Phố khiến quân Lương 10 phần chết đến 6, 7. Năm
Giáp Tý 544, Lý Bí đã tự xưng là Nam Việt đế, đặt niên hiệu là Thiên Đức, đặt
tên nước là Vạn Xuân. Đó chính là vị hoàng đế đầu tiên và Thiên Đức cũng
là niên hiệu đầu tiên chứng tỏ nền độc lập của nước ta.
Vận mệnh của một đất nước dường như cũng
như vận mệnh một con người, cũng có lúc không may, lúc may mắn. Cuối thế kỷ 9,
sau 1000 năm Bắc thuộc, nhà Đường suy yếu, Tiết độ sứ Độc
Cô Tổn ở nước ta bị chính quân nhà Đường giết chết, Khúc Thừa Dụ đã thừa
cơ chiếm được thành Đại La (Hà Nội), tự xưng Tiết độ sứ, mở ra
thời kỳ tự chủ của dân tộc, kéo dài gần 1000 năm (905-1887).
Trong giai đoạn này nước ta thực sự là
quốc gia hùng cường, từng nhiều phen đánh cho quân xâm lược thất điên bát đảo.
Năm 931, Dương Đình Nghệ đánh tan quân
Nam Hán, đuổi thứ sử Lý Tiến, chém chết tướng Trần Bảo; Năm 938, Ngô
Quyền, con rể của Dương Đình Nghệ, bày trận trên sông Bạch Đằng đánh
thắng quân Nam Hán, giết chết Hoằng Tháo; năm 981, Lê Hoàn đánh tan cuộc xâm
lược của nhà Tống; 1009, Lý Công Uẩn lên ngôi, dời đô ra Thăng long, lập
nên một triều đại dài nhất trong lịch sử (216 năm). Năm 1075, khi biết Vua
Tống dấy binh, Vua Lý Nhân Tông đã sai Lý Thường Kiệt và Tôn Đản đem
hơn 100.000 quân đi đánh chặn ngay trên đất giặc; Lý Thường Kiệt đã chém chết
Trương Thủ Tiết tại cửa ải Côn Lôn (Nam Ninh). Tri phủ Ung Châu là Tô Giám, khi
thấy thành bị hạ, đã giết cả nhà 36 người rồi tự thiêu. 1076, nhà Tống lại dùng
Quách Quỳ và Triệu Tiết đem 10 vạn quân tinh nhuệ, tiến theo hai đường thủy, bộ
xâm chiếm nước ta. Lý Kế Nguyên đã chặn đánh thủy binh do Quách Quỳ chỉ huy
trên sông Vân Đồn (Quảng Ninh) còn Lý Thường Kiệt đã lập phòng tuyến ở bờ nam
sông Như Nguyệt (sông Cầu). Tại đây, Lý Thường Kiệt đã làm bài thơ Nam quốc sơn hà bất hủ, như
một bản Tuyên ngôn Độc lập hùng tráng đầu tiên trong lịch sử dân tộc để cổ vũ
tinh thần chiến đấu của quân Đại Việt, làm hoang mang quân giặc, đến nỗi đã
không cần đánhmà thắng:
Tiệt nhiên định
phận tại thiên thư.
Như hà nghịch
lỗ lai xâm phạm,
Nhữ đẳng hành
khan thủ bại hư.
Dịch thơ:
Sông
núi nước Nam
Sông núi nước
Nam, vua Nam
ở
Rành rành định
phận tại sách trời
Cớ sao lũ giặc
sang xâm phạm?
Chúng bay sẽ bị
đánh tơi bời.
Nhà Trần kế tiếp nhà Lý đã ba lần đánh
thắng quân Nguyên Mông. Năm 1259, Hốt Tất Liệt diệt được Nam Tống,
lập ra nhà Nguyên, đã lần thứ 2 tiến đánh Đại Việt. Đây là lần xâm
lược có quy mô lớn nhất với hơn 50 vạn quân, với thế "gọng kìm",
Thoát Hoan đi từ Quảng Tây từ hướng Bắc đánh xuống, còn Toa Đô đi
đường biển từ hướng Nam đánh lên. Năm 1285, Nhà Trần dùng chiến thuật
"vườn không nhà trống", đợi thời cơ đã tổ chức phản công, với những
chiến thắng ở Tây Kết, Hàm Tử, Chương Dương, đã giết được Toa
Đô, khiến Thoát Hoan trốn chạy. Cuối năm 1287, nhà Nguyên lại
xâm lược lần thứ ba. Trần Hưng Đạo bố trí lực lượng mai phục bằng cọc nhọn như
Ngô Quyền ngày nào ở cửa sông Bạch Đằng, tiêu diệt toàn bộ binh thuyền
của Ô Mã Nhi, Thoát Hoan phải chui vào ống đồng trốn chạy về nước. Trần
Hưng Đạo trở thành vị anh hùng dân tộc, ngày nay mọi người gọi ngài là Đức
Thánh Trần. Theo The New
Encyclopedia Britanica xuất bản năm 1983 có bổ sung thêm những vị
tướng soái kiệt xuất thế giới trong đó có Trần Hưng Đạo và Võ Nguyên Giáp. Trần
Hưng Đạo được đánh giá là : “huyền thoại của lịch sử Việt Nam, nhà
chiến lược quân sự xuất sắc đã đánh thắng quân Mông Cổ của Thành Cát Tư Hãn, và
là người anh hùng dân tộc trong nền văn hoá của Việt Nam ngày nay”(http://www.lichsuvn.info/forum/archive/index.php/t-1185.html).
Vùng quê tôi là vùng đất phong cho con cháu của ngài, như làng Từ Ô, xã Tân
Trào (Thanh Miện, Hải Dương) có nhiều hậu duệ của ngài. Còn làng Đông La (La
trong thiên la địa võng, nên có thể dịch là tấm lưới giăng bắt địch
hướng Đông) thờ ngài Thành Hoàng là Hoàng Trân, một vị tướng của Trần Hưng Đạo.
Ngài đã xây một cái chùa (ngày nay còn lại rất nhỏ), ngọc phả ghi là rất linh,
nên “Khi Lê Lợi dấy binh đánh quân Minh,
xưng vương ở Lam Sơn, sai tướng Nguyễn Xí đến hành lễ cầu đảo đại vương, đều có
linh ứng”. Có lẽ do nước ta “ra ngõ
gặp anh hùng” nên chính sử không đủ chỗ ghi tên vị Thành Hoàng làng tôi. Vì
vậy, tôi là một con dân của ngài đã một lần viết truyện ghi tên ngài, và hôm
nay là lần thứ 2, tôi lại viết tên ngài trong một bài viết về lịch sử đất nước.
Cầu mong ngài cho con sức mạnh để đánh thắng bọn dốt ác trên mặt trận chữ nghĩa
này!
Đến thời Lê Lợi, với Khởi
nghĩa Lam Sơn (1418-1427), năm 1427, đã đập tan 10 vạn quân Minh
trong trận Chi Lăng - Xương Giang, giết chết Liễu
Thăng. Nguyễn Trãi đã viết bài Bình Ngô đại cáo, một áng thiên cổ hùng văn, một bản
Tuyên ngôn Độc lập lần thứ hai của đất nước.
Thời Quang Trung Nguyễn Huệ, chỉ trong
vòng 6 ngày, kể từ đêm 30 đến mồng 5 Tết Kỷ Dậu (1789), đã dẫn đại quân Tây Sơn
đánh tan tác 29 vạn quân Thanh, xác giặc chất đống thành Gò Đống Đa còn đến
ngày nay!
Như vậy, sau hơn 2000 chống chọi và
đã chiến thắng oai hùng các thế lực xâm lược phương Bắc khổng lồ, giữ yên được
bờ cõi, còn hơn 100 năm gần đây (từ 1858), đất nước bé nhỏ của chúng ta lại
phải đương đầu với một thế lực khác, hùng mạnh hơn nhiều lần, không phải về
quân số mà là vũ khí, sản phẩm của khoa học công nghệ và tư tưởng đế quốc thực
dân; đó chính là những nước phát triển, những nước mà có thời họ coi mình là
trung tâm của văn minh nhân loại, coi những nước khác như những bãi đất hoang
và dân cư như bầy đàn man di mọi rợ, cần phải đến khai phá để mở mang bờ cõi.
Nhiều vùng đất đã bị mất tên và được thay tên mới trên bản đồ thế giới, nhiều
dân tộc bản địa trở thành dân tộc thiểu số trên chính tổ quốc của họ, bị hao
hụt và dần bị đồng hóa. Chỉ có dân tộc Việt, Tổ quốc Việt, sau 1000 Bắc thuộc
và 100 năm bị Đế quốc xâm chiếm, vẫn còn đó, vẫn hiên ngang tồn tại và ngày một
phát triển vững mạnh, bởi chúng ta đã chiến thắng tất cả.
Nhà Nguyễn (1802 - 1945), triều đại phong
kiến sau cùng ở nước ta đã có công rất lớn trong việc mở mang bờ cõi về phương Nam trù phú.
Nhưng cũng chính Nguyễn Ánh, người lập ra triều Nguyễn, lại tạo duyên cớ cho
Pháp xâm chiếm nước ta khi ký Hiệp ước Versailles . Năm 1858, Đô
đốc Charles Rigault de Genouilly đã đánh chiếm Đà Nẵng. 28 tháng
11 năm 1861, Thủy sư đô đốc Bonard hạ lệnh xâm chiếm Côn Đảo. Trung uý Hải quân
Pháp Lèspes sau khi đánh chiếm được Côn Đảo đã ra "Tuyên cáo chủ quyền": “Tuân
hành lệnh của Thống Đốc, tôi tuyên bố chiếm hữu quần đảo Côn Lôn, nhân danh vua
Napoleon đệ Tam, hoàng đế toàn nước Pháp”. Việc khai hóa đầu tiên của người
Pháp đối với người Việt là ngày 1 tháng 2 năm 1862, Bonard ký quyết định thành
lập nhà tù Côn Đảo, trở thành chốn địa ngục trần gian giam giữ những người
Việt bị thất bại trong các cuộc khởi nghĩa chống Pháp mong giành lại nền độc
lập. Một loạt lãnh tụ nghĩa quân đã anh dũng hy sinh như Trương
Định, Nguyễn Hữu Huân, Phan Văn Đạt, Nguyễn Trung Trực, v.v… Đến
ngày 20 - 11 - 1873, quân Pháp bắt đầu tấn công thành Hà Nội, Nguyễn Tri
Phương đã chỉ huy tướng sĩ phòng thủ, thế giặc mạnh, thành thất thủ, ông
bị thương nặng rồi bị bắt,đã nhịn ăn mà chết. Sau 9 năm, 25 - 4 –
1882, Hoàng Diệu tiếp bước Nguyễn Tri Phương chỉ huy tướng sĩ phòng
thủ Thành Hà Nội, thế giặc mạnh, thành cũng lại bị thất thủ, ông đã anh dũng
tuẫn tiết trước Võ Miếu!
Khi phong trào Cần Vương (1885)
bị thất bại, Vua Hàm Nghi bị bắt, rồi bị đày sang Algérie, Liên bang Đông
Dương được thành lập ( 17 - 10 - 1887), thì một lần nữa
dân ta lại mất nước.
***
Và rồi chính Hồ Chí Minh, vị anh hùng dân
tộc, từ tuổi đôi mươi với hai bàn tay trắng đã ra đi tìm đường cứu nước, rồi
thành lập Đảng Cộng Sản Việt Nam
(3-2-1930). Trải qua một hành trình dài vô cùng gian khổ, để được dân tin theo,
biết bao máu của các chiến sĩ cộng sản đã đổ. Chỉ riêng những vị lãnh tụ cao
nhất đã có liên tiếp tới 4 tổng bí thư chết dưới tay quân Pháp: Trần
Phú, Lê Hồng Phong, Hà Huy Tập, Nguyễn Văn Cừ. Để rồi từ đó mới
có được Cách mạng Tháng 8 thành công, và 2- 9 - 45, Bác Hồ đọc Tuyên ngôn Độc lập,
khai sinh một nước VN mới.
Chính với vị thế mới đó, chỉ trong 30 năm
(1945-1975), một chớp mắt của lịch sử, dưới sự lãnh đạo của Đảng và Bác, dân ta
đã đánh thắng đến 4 cuộc xâm lược, trở thành biểu tượng anh hùng của ý chí bất
khuất và trí thông minh tuyệt vời trong công cuộc chống ngoại xâm giành lại nền
Độc Lập.
Có những chiến thắng chấn động địa cầu
không chỉ làm thế giới ngạc nhiên mà đến tận những ngày hôm nay, khi có điều
kiện hiểu biết hơn, chính chúng ta lại càng ngạc nhiên hơn. Như có một phép
mầu, một đội quân lúc đầu chỉ có 34 người với vài khẩu súng kip, nhưng sau 10
năm đã đánh thắng được Đế quốc Pháp được Mỹ hỗ trợ mạnh về quân sự tại Tập đoàn
cứ điểm Điện Biên Phủ, bắt sống Chỉ huy trưởng Tướng Đờ Cát và 11.721 quân lính
(Theo Chiến dịch Điện Biên Phủ –
Wikipedia) Theo Tướng Trần Độ, Tướng Đờ Cát khi bị bắt đã phải thú nhận
rằng: "Tôi cũng thấy làm vinh dự
được làm tù binh của một quân đội như quân đội Việt Nam". Tháng
3/1993, khi sang thăm Việt nam, Tổng thống Pháp Francois Mitterrand lên thăm
Điện Biên Phủ, đã xin phép được xây dựng một đài tưởng niệm những binh lính
Pháp tử trận. Ông M.Claode Vignes (khách du lịch Pháp) nói: “Chỉ cần nhìn đài tưởng niệm binh sỹ pháp ở
Điện Biên Phủ thì đủ thấy sự khoan dung to lớn của nhân dân Việt Nam ”. Tướng
Bi-gia, nguyên Bộ trưởng Quốc phòng Pháp, là trung tá sĩ quan dù ở Điện Biên
Phủ, đã viết trong cuốn “Cuộc chiến tranh
Đông Dương của tôi”: “Ngày 28-6-1994: tôi đã trở lại Điện Biên Phủ, … Tôi đã
đến đài kỷ niệm… Những quân nhân Pháp ở Điện Biên Phủ trở về Pháp mà không có
được một ai đón chào, còn ở trên mảnh đất Việt Nam này lại có một đài kỷ niệm
tưởng nhớ họ”.
Trong cuộc Kháng chiến chống Mỹ có lẽ
đỉnh cao của sự đối đầu Việt - Mỹ chính là trận Điện Biên Phủ
trên không mà phía Mỹ gọi là Chiến dịch Linebacker II (từ 18
tháng 12 đến 30 tháng 12 năm 1972). Các cuộc tấn công dồn
dập bằng máy bay ném bom chiến lược B-52 ném bom rải thảm huỷ diệt
xuống Hà Nội,Hải Phòng, Thái Nguyên và các mục tiêu khác liên
tục trong 12 ngày đêm là một trong những cuộc tập kích có cường độ cao nhất
trong toàn bộ lịch sử các cuộc chiến tranh! Vừa rồi, trong những ngày kỷ
niệm sau 40 năm chiến thắng, lần đầu tiên những bí mật quân sự được công bố
trên truyền hình, khiến cho tất cả người VN có lương tri ai cũng đều phải dâng
lên niềm xúc động và tự hào, chúng ta đã thắng Mỹ không chỉ bằng ý chí, bằng
máu mà còn bằng cả trí thông minh tuyệt vời nữa. Những khái niệm lạ lùng lần
đầu ta được nghe như “trinh sát
nhiễu”, “vạch nhiễu”, “phương pháp bắn 3 điểm”, “ bắn đón nửa góc”, v.v…
Một tờ báo Mỹ đã gọi đó là cuộc "Chiến
tranh điện tử” mà phần thắng đã thuộc về VN. Trung tướng Phan Thu, Anh hùng
lực lượng vũ trang nhân dân, nguyên chỉ huy Tiểu đoàn Trinh sát nhiễu, kể lại:
“Trong suốt thời gian hoạt động trinh
sát, chúng tôi không thu được nhiễu 3cm của địch. Như vậy, B-52 chưa gây nhiễu
dải sóng 3cm đối với các loại radar phòng không". Một công trình
nghiên cứu cải tiến kỹ thuật: ghép phần tử mục tiêu của radar K8-60 làm việc ở
dải sóng 3cm với đài điều khiển SAM-2. Đại tá Nguyễn Ngọc Lạc, hồi đó là Thượng
úy Kỹ sư của Cục Quân khí, một chứng nhân, từng trực tiếp sửa chữa và đề xuất
thử nghiệm và cho kết quả ra-đa K-860 với băng sóng 3cm đã xác định mục tiêu
tốt, góp phần quan trọng trong việc bắn rơi B52 trên bầu trời Hà Nội trong 12
ngày đêm cuối năm 1972.
Điều kỳ diệu thứ 2 là việc bộ đội phòng
không của ta đã hóa giải được tên lửa “không
đối đất” Shrike của Mỹ. Tên lửa này có thể tìm và “bắt” được mục tiêu theo sóng ra-đa, chuyên dùng để phá hủy các hệ
thống phòng không đối phương. Tại Trung Đông, hàng chục hệ thống tên
lửa phòng không của Khối Ả Rập từng bị loại tên lửa này phá hủy. Bộ đội ta
đã vô hiệu hóa bằng cách phát sóng tức thì, tắt máy đột ngột và quay ngay đài
ăng-ten đi hướng khác, tên lửa Shrike đã “bị
điều khiển” chệch khỏi mục tiêu!
Cuối cùng để giành chiến thắng không thể
không nhắc đến chiến công của các cán bộ tình báo quân sự đã phải ngày đêm theo
dõi mọi động thái của địch. Đại tá Trần Văn Tụng, từng thuộc Trung đoàn Trinh
sát Kỹ thuật, Tổng cục 2, Bộ Quốc phòng kể lại, vào những năm 60, ông là 1
trong 10 sinh viên của trường ngoại giao được tuyển vào Cục 2. Ông cho biết lúc
đầu chúng ta chưa biết cách làm thế nào để có tin cụ thể. Sau những mày mò,
phán đoán từ các thông tin trinh sát có được, đơn vị của ông dần dần đã hình
thành được nhiều bộ giải mã tin, từ đó dự đoán chính xác thời gian, địa điểm,
số lượng máy bay Mỹ sẽ tham chiến. Chính vì thế, chiều 18-12-1972, Đại tá Phan
Mạc Lâm, người được mệnh danh là đã “lập
hồ sơ B-52”, khi Tướng Phùng Thế Tài hỏi:
- Này cậu, B-52 đến đâu rồi?
Ông mới có thể khẳng định:
- Giữa đường rồi, thưa Thủ trưởng - có cả
hướng Gu-am và Thái Lan.
Như vậy chúng ta hoàn toàn sẵn sàng chủ
động đón đánh địch, đã sơ tán hàng chục vạn dân tới nơi an toàn trước trận
đánh. Và chỉ có như thế chúng ta mới làm nên một trận “Điện Biên Phủ trên
không”, giành thắng lợi hoàn toàn.
Với tinh thần của Bác: “…chúng tôi phải được yên ổn. Chúng tôi không
muốn trở thành người chiến thắng. Chúng tôi chỉ muốn Mỹ cút đi! Gút-bai!”
Và theo lời dậy của Người: “Chúng ta căm
thù Đế quốc Mỹ xâm lược nhưng không được căm thù nhân dân Mỹ”, sau ngày
toàn thắng, chúng ta lại có được một thành tựu ngoại giao quan trọng, mở ra một
thời kỳ mới dựng xây đất nước, nước ta trở thành như một câu thơ của tôi trong
bài TỔ QUỐC-NỬA BÀN CHÂN DÍNH BÙN VÀ MÁU:
Một đất nước
đến kẻ thù cũng đem lòng yêu mến
Ngày 15 tháng 7 năm 1995, TT
Clinton tuyên bố thiết lập bang giao đầy đủ với Việt Nam . Năm 2000, ông cùng với vợ
con thăm Việt Nam .
Trong bài Binh-thuong-hoa-quan-he-Viet-My,
ông nói: “Bình thường hóa quan hệ Việt -
Mỹ là thời khắc tuyệt vời trong nhiệm kỳ của tôi”; “Việt Nam
là đất nước có vị trí đặc biệt trong trái tim tôi”.
Ngày 6-12-2006, ông đã nói với Chủ tịch
Nguyễn Minh Triết: “Sáu mươi năm trước,
Chủ tịch Hồ Chí Minh và Tổng thống Roosevelt
đã muốn hai nước Việt - Mỹ thật sự là bạn. Quá trình này đã có những bước gập
ghềnh. Tuy nhiên, tôi vô cùng hạnh phúc chứng kiến quan hệ tốt đẹp giữa hai
nước mà đáng lẽ phải có từ cách đây 60 năm”.
Về phía VNCH, Tướng Nguyễn Cao Kỳ có thể
là một người lính quả cảm nhất, sẵn sàng chiến đấu tới cùng, chính vậy ta càng
quý ông hơn khi ông đã vượt qua mặc cảm của một kẻ bại trận, trốn chạy, đã thừa
nhận sự thật lịch sử, trở thành một biểu tượng của sự hòa giải. Trong Nguyễn Cao Kỳ – Wikipedia, tại khách sạn
Sheraton TP Hồ Chí Minh, 15/1/2004, ông nói: "…sau 30 năm khi đất nước đã thống nhất và đây là lúc cần sự tập hợp của
tất cả người VN trong cũng như ngoài nước để phục hưng đất nước, để VN trở
thành một con rồng châu Á”; ông cũng từng nói: " Những sự mất mát và đau khổ trong cuộc chiến
cũng như sau cuộc chiến thì chồng chất nhiều lắm, nhưng cứ quay lại dĩ vãng và
uất hận thì chỉ là chuyện của cá nhân mỗi người”. Một người khác, GS Vật lý
Trần Chung Ngọc, một bạn đồng khóa tại trường sĩ quan với Tướng Nguyễn Cao Kỳ,
trong bài NGÀY
30/4/1975, ông viết: “Ngày 30/4/1975
không chỉ có nghĩa là ngày đất nước thống nhất, chủ quyền trở lại tay người
Việt Nam, mà còn là ngày người dân Việt Nam, trừ những kẻ có tâm cảnh phi dân
tộc hay tiếp tục nuôi dưỡng thù hận, bất kể thuộc chính kiến hay phe phái nào,
đều có thể hãnh diện ngẩng mặt nhìn thẳng vào mắt kẻ đối thoại, bất kể là họ
thuộc lớp người nào, ở địa vị nào, thuộc quốc gia nào. Tôi ở phe thua trận,
nhưng chiến thắng Điện Biên Phủ, cũng như ngày 30/4/1975, đã mang đến cho tôi
một niềm hãnh diện được làm một người Việt Nam ”.
***
Sự thật Lịch sử là vậy, không chỉ người
dân VN mà được cả loài người có lương tri tiến bộ trên toàn thế giới công nhận.
Vậy mà thật kỳ quái lại có những người thuộc tầng lớp từ “nhân sĩ trí thức”,
nhà văn, nhà báo, đến dân thường vì những nguyên cớ, những tham vọng và ảo
tưởng khác nhau, nhân danh đấu tranh vì dân chủ tiến bộ chống lại Nhà nước Việt
Nam, họ tìm mọi cớ, bu vào mọi chuyện, kể cả việc cố tình không chỉ xóa trắng
mà còn lộn ngược lịch sử, một hành động phản đạo lý, phản nhân văn và mất nhân
tính. Những muốn lịch sử nước ta bước lại những bước đi ngập bùn lầy và máu.
Cuốn sách này ra đời nhằm chỉ mặt gọi tên
một số nhân vật “cộm cán” trong những người đó. Chỉ mong góp một phần nhỏ bé
tâm trí trên mặt trận không tiếng súng, chống lại luận điệu xuyên tạc, giữ bình
yên cuộc sống nhân dân.
TP Hồ Chí Minh
20-6-2016
ĐÔNG LA