Thứ Hai, 21 tháng 1, 2013

BÊN THẮNG CUỘC: “THÂM CUNG BÍ SỬ” HAY CÁI NHÌN TĂM TỐI CỦA HUY ĐỨC?


ĐÔNG LA
BÊN THẮNG CUỘC: “THÂM CUNG BÍ SỬ”
HAY CÁI NHÌN TĂM TỐI CỦA HUY ĐỨC?
(PHẦN KẾT)
BÀI LIÊN QUAN

*BÊN THĂ!NG CUỘC: “LỘT TRẦN NHỮNG CHUYỆN NHẠY CẢM” HAY     HUY ĐỨC “TỰ LỘT TRẦN” MÌNH?

*TRANG LỊCH SỬ - BÀN VỀ CHÍNH NGHĨA

*Chuyện ông Ngô Đình Diệm phản bội Cựu hoàng Bảo Đại

*Gặp điệp viên Việt Cộng từng vào Nhà Trắng nước Mỹ

*Bài phát biểu của Tướng Nguyễn Thanh Tuấn

*VỀ HAI “ỨNG CỬ VIÊN GIẢI NOBEl” CHO VĂN CHƯƠNG VIỆT NAM

TRẦN MẠNH HẢO: MỘT HẬU DUỆ CỦA PHÁT XÍT NHẬT

*HUỲNH NGỌC TUẤN, HUỲNH THỤC VY HAI CHA CON TỰ ĐÀY ĐỌA MÌNH

Hôm nay tôi sẽ kết lại loạt bài viết về cuốn Bên thắng cuộc bằng việc bàn về những chuyện thâm cung bí sử mà Huy Đức đã viết. Nhưng trước hết, phải công bằng với Huy Đức, chúng ta xem thử dư luận gần đây.
Về phía ca ngợi Huy Đức, số lượng bài viết xem chừng áp đảo phía công kích. Nhưng trong lĩnh vực tri thức phức tạp, số lượng không có ý nghĩa gì. Như khi Einstein đưa ra Thuyết Tương đối, biết có danh sách 100 nhà bác học phản đối, ông đã cười mà rằng: “Nếu tôi sai thì 1 cũng đủ cần gì tới 100!”. Huống hồ số người ủng hộ Huy Đức hầu hết thuộc phe “thua cuộc”, làm sao mà họ chả ủng hộ một người biện hộ cho họ? Ta thử xem ý kiến một vài nhân vật có trình độ.
     Alan Phan, một doanh nhân tài danh và thành đạt, viết sau khi đọc Bên thắng cuộc: “Lần đầu tiên trong lịch sử, một nghịch lý hiện diện sau 1975. Cuộc sống của 95% người thua cuộc sau vài năm (phải lang bạt kỳ hồ khắp năm châu) lại sung túc về vật chất gấp 10 lần 95% những người thắng cuộc… Trong khi phe thắng cuộc vẫn loay hoay tìm lối ra trong cái đầm lầy họ tự đào” (gocnhinalan.com) Đọc xong tôi bật cười thấy vị doanh nhân này cũng ngu ngơ y như Ngô Bảo Châu viết về Hà Vũ vậy. Nếu “bên thua” các ông chạy sang một nước khác có thực trạng y như VN, hoặc sang vùng Trung Đông hoặc Châu Phi chẳng hạn, mà các ông cũng giàu được như vậy, thì hãy tự hào. Còn các ông thực chất chỉ là những kẻ ăn theo tại những nước, khi mà dân ta còn là nô lệ và 2 triệu người chết đói, thì người ta đã chế tạo được bom nguyên tử rồi. Các vị giàu có cũng tốt thôi nhưng chỉ là tha phương cầu thực, vẫn có cái phần nhục trong đó, không nên tự hào, kể cả chính bản thân tôi đây khi cũng có khá nhiều người thân bên Mỹ.
Giáo sư Nguyễn Mạnh Hùng, Đại học George, khen Huy Đức “chuyên nghiệp và công bằng hiếm có” thì “bên thua” cũng có những người phản bác. Tôn Nữ Hoàng Hoa trên tieng-dan-weekly.blogspot.com: “GS Nguyễn Mạnh Hùng cho rằng tác giả Huy Đức rất công bằng khi viết cuốn Bên Thắng Cuộc này. Chúng tôi xin trả lời ngay nếu nói tác giả Huy Đức có ý công bằng là sai”. Bởi họ cho rằng Huy Đức muốn "hồi chánh thật sự" thì phải dũng cảm còn kiểu bắt cá hai tay để cầu danh lợi như Huy Đức là “Nếu không viết được những dòng trung thực thì phải viết những dòng nịnh, bợ. Khi đã viết những dòng nịnh, bợ thì không còn chữ TRUNG mà chỉ còn lại là một chữ HÈN”.
     Lão Móc trên  hennhausaigon trong bài Mặt thật Huy Đức viết:
“…Ở Mỹ, người Mỹ sẽ hỏi Huy Đức là thằng nào? Ở Việt Nam khá nhiều người … biết nó là … Trương Huy San, biệt danh “San Hô”, do đồng nghiệp Tuổi Trẻ đặt cho một cách khinh miệt”; “Kim Hạnh ném San Hô ra thị trường thông tin đạt kết quả tốt… Huy Đức nhanh chóng tự biến thành “tên nhà báo làm tiền” … Nhìn chung, công trình xây dựng nào cũng không ít thì nhiều cũng có vấn đề! Huy Đức tìm gặp để… tìm hiểu… Sau những câu hỏi bắt mạch… thằng “San Hô” có trong tay một số căn chung cư, villa… mua theo giá hữu nghị… San Hô chỉ cần kiếm thân chủ bán trao tay! “Chưa tới 10 năm làm báo, cứ nhìn tài sản của thằng San Hô là đủ biết!”, Sỹ H., phóng viên thể thao nói so sánh. Còn H. Ngọc, chuyên mục nhà đất báo Sàigòn Tiếp Thị, kể rằng, “Nguyễn Phụng Thiều, nguyên Gám đốc kinh doanh nhà Tân Bình, có lần cho biết “báo TT đưa tin trước nhất về công trình chung cư Bàu Cát, Huy Đức là khách hàng đầu tiên”. Bài báo kết luận: “THS, HĐ, San Hô, một thằng làm báo thiếu đạo đức nghề nghiệp,…  lợi dụng sự tò mò của những ai chưa biết, viết về những chuyện cũ kỷ hơn 30 năm để móc đô-la của người Việt tại Mỹ, rõ ràng, có quá nhiều người đã trúng kế dân vận của một tên “hăng rô” lưu manh chữ nghĩa”.
Đã có những “ông con Việt Cộng” khen Huy Đức như Nguyễn Giang BBC (Anh), Trần Hữu Dũng (Mỹ) thì “Việt cộng chiêu hồi” như Bùi Tín cũng khen: “Đây quả là một công trình hiếm có, công phu, bởi vì anh có gan, có ý chí”. Về phần góp ý, Bùi Tín viết:  “Những thiếu sót gốc phải gia công hơn nữa, ví dụ như là ‘cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước’ nói như thế có đúng hay không, theo tôi là không đúng. Thế còn nói ‘ngày toàn thắng,’ ‘ngày giải phóng,’ thì ngay cái tít ‘giải phóng’ cũng đã là mỉa mai rồi”.
Những kẻ chiêu hồi thì dù chiêu hồi phe thắng, phe chính nghĩa cũng đã là nhục, nên trong Tam Quốc, phía Lưu Bị đã phải mất bao công thuyết phục thì Hoàng Trung mới quy hàng. Còn Bùi Tín, nếu không có nghề gì để kiếm sống thì nên đi hầu bàn hoặc làm gì đó, đã trốn chạy, trở cờ mà lại còn đòi giảng giải đạo lý thì da mặt ông dầy thật! Nói đúng cũng đã là khó nghe huống hồ lại nói sai. Nước ta khi vua bị bắt, tên nước cũng bị xóa bỏ, khi ta giành lại nền độc lập thì không phải là giải phóng thì là cái gì? Tôi tin là dù nước ta có biến đổi thế nào thì ngàn đời sau những người có lương tri cũng sẽ còn nguyền rủa những thằng phản bội, phản đạo lý! Trên trang Hiệu Minh có một comment thật hay, đã ví Bùi Tín như “miếng giẻ chùi máu”:
Dove says : Khi đọc đến câu:
“‘cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước’ nói như thế có đúng hay không, theo tôi là không đúng”, tôi đã rời màn hình đi thắp một nén nhang để viếng hương hồn của hàng triệu bà con bị chết đói năm 1945 và hàng nghìn người Hà Nội, trong đó có ko ít giáo dân đã chết thảm do Christmas Bombing. Tôi đã thề rằng, từ nay sẽ ko bao giờ đọc Bùi lão gia nữa, bỡi nhẽ ông ta chẳng qua là một miếng giẻ chùi máu trên giày của bọn thực dân đế quốc nói chung và tù binh phi công Mỹ nói riêng”.
Chưa hết, trong số ca ngợi ủng hộ Huy Đức còn có những ông “Việt cộng” chính hiệu nữa.
Nguyên Ngọc viết: “Cuốn sách này nói về những sự thật khốc liệt, nhưng vì rất trung thực nên nó khiến ta bình tĩnh hơn trong thế giới và giữa đất nước khốc liệt ngày nay”. Về mặt văn chương, ở đây Nhà văn Nguyên Ngọc lại sai về “tiếng Việt” rồi. Như lần trước tôi cũng đã chỉ ra trong truyện ngắn Rẻo cao khi nhà văn ngửi thấy mùi hương mang màu tím. Hiện tại đất nước chúng ta có những trì trệ, tệ nạn, nhân dân có nhiều “bức xúc”, nhưng vẫn đang tăng trưởng, nhà văn viết “đất nước khốc liệt” là sai! Trong quá khứ, “vụ Báo Văn Nghệ” có thể là “khốc liệt”, nhưng chỉ với riêng ông mà thôi. Còn Huy Đức theo ông là “trung thực” thì  chỉ xin trích ý kiến người trong cuộc là Nhà báo Lưu Đình Triều, con nhà báo kỳ cựu Lưu Quý Kỳ, viết trên Tuổi trẻ: “Huy Đức đã viết không đầy đủ, nên làm sai lệch bản chất. Anh đã “vẽ” ra một “hố sâu thực sự” giữa hai cha con và cả gia đình tôi nữa. Sự việc còn cay đắng hơn là qua đó hiện lên hình ảnh của một người cha không có tình cảm, tình người ngay với chính đứa con trai duy nhất của mình.
Huy Đức à, ba tôi mất cách đây ba mươi năm, nói theo dân gian là đã mồ yên mả đẹp rồi, thế mà...
Vâng, sự trích đoạn tới đâu là quyền chủ quan của người viết, nhưng nếu trung thực và để đúng bản chất sự việc thì Huy Đức không thể “cắt cúp” theo chủ kiến của mình
Giáo sư Chu Hảo, nguyên thứ trưởng Bộ Khoa học - Công nghệ, viết:
"Huy Đức viết công trình khảo cứu lịch sử đặc sắc này với lương tâm trong sáng và tay nghề lão luyện của một nhà báo chuyên nghiệp có trách nhiệm trước vận mệnh của đất nước. Có công minh lịch sử mới có hòa giải dân tộc thực sự".
Công nhận đoạn này “hay” thật, “hay” ở chỗ một người như ông Chu Hảo sao lại dở đến thế! Việc ông cho Huy Đức “lương tâm trong sáng”; “có trách nhiệm”; “công minh lịch sử”. Điều này thì có quá nhiều lý lẽ để phản bác nhưng ở đây tôi chỉ hỏi ông một câu: vậy ông trả lời sao đây cho hương hồn cha ông, cụ Chu Đình Xương, nguyên Giám đốc Ty Liêm phóng (Công an) Bắc Bộ, như chính ông kể trên Báo Lao động, là người từng “có nhiệm vụ tổ chức bảo vệ vòng trong cho Bác” khi Bác Hồ viết “Tuyên ngôn độc lập”; khi Huy Đức ca ngợi những sĩ quan VNCH tự sát là “tuẫn tiết”? Tôi xin tra giúp ông: Tuẫn tiết có nghĩa là “chết vì nghĩa lớn”! Vậy theo logic, mà chắc ông là GS vật lý phải giỏi, ông cho Huy Đức "công minh" khi cho phía VNCH là chính nghĩa, thì cha ông, rồi kể cả ông nữa, đã đi theo con đường phi nghĩa sao?! (Trích dẫn theo http://googletienlang).
Còn những chuyện mà Trần Hữu Dũng (Mỹ) viết: ““Bên Thắng Cuộc” lột trần nhiều “huyền thoại” về một số lãnh đạo Đảng Cộng sản Việt Nam””; và Nguyễn Giang (BBC) viết: “Các vụ ‘thâm cung bí sử’ trong chính trường Việt Nam, nhất là giới tướng lĩnh như cái chết của các tướng Nguyễn Chí Thanh thời chiến tranh, rồi những chuyện đột tử của các tướng Hoàng Văn Thái, Lê Trọng Tấn, Đinh Đức Thiện sau này cùng một âm mưu bao vây, hạ thấp tướng Võ Nguyên Giáp được mô tả thật sinh động”?
Trước kia, với dạng thông tin “nhạy cảm” như vậy, các nhà chức trách chỉ cần cấm phát tán là xong, nhưng giờ sao chặn được thông tin trên internet lan truyền bằng sóng điện từ? Vậy chỉ còn cách là đối thoại sòng phẳng thôi.
Với Bác Hồ, Huy Đức cũng có thấp thoáng viết về Bác. Như với trích dẫn: “Sau Hồ Chí Minh, Lê Duẩn là nhà thiết kế chính, nếu không nói là duy nhất, của mô hình kinh tế miền Bắc suốt từ năm 1960 đến 1975”; và chuyện TT Phạm Văn Đồng, khi viết Công hàm gửi cho Trung Quốc “tán thành tuyên bố của họ về hải phận, thì cũng đã “hỏi ý Bác”.
Một nền kinh tế (từ 1960 đến 1975) mà tất cả tinh lực giành hết cho cuộc kháng chiến còn kém là lẽ thường thì có gì mà phải bàn. Nhưng cần phải hiểu, chuyện khoán sản cũng không phải là chân lý tuyệt đối. Nên nhớ chính  kinh tế tập thể đã làm Liên xô trở thành siêu cường chứ không phải “khoán sản”. Tối trước xem ti vi thấy cảnh làm từ thiện cho người vô gia cư ở Nga trong lễ Giáng sinh mà thấy quá xót xa! Chính sự sùng bái cá nhân, vứt bỏ cơ chế kiểm soát quyền lực của Lê-nin đã biến LX trở về một dạng phong kiến mới, đã phá hủy LX, chứ không phải chỉ là những yếu kém của nền kinh tế tập thể!
Còn chuyện Công hàm của TT Phạm Văn Đồng thì phải hiểu, cái chuyện lo giành lại cả nửa nước phải quan trọng hơn chuyện mấy hòn đảo rất nhiều. Nhiều kẻ cho TT Phạm Văn Đồng đã “bán nước” thì thật bậy bạ. Nếu tự dưng mang biển đảo dâng cho ngoại bang để mưu cầu quyền lợi cá nhân thì rất đáng bị lên án, như Nguyễn Ánh dâng Côn Đảo cho Pháp để xin viện trợ đánh Quang Trung chẳng hạn. Còn Công hàm của TT Phạm Văn Đồng mà “có hỏi Bác” chỉ là một hành động ngoại giao tế nhị, là việc lướt qua chuyện nhỏ để mưu cầu chuyện lớn. Còn bây giờ ta có điều kiện để đấu tranh đòi chủ quyền thì phải đấu tranh, nhưng phải dựa vào chứng cớ pháp lý của lịch sử, dựa vào luật biển quốc tế, kết hợp với sức mạnh của chính trị, ngoại giao, kinh tế và quốc phòng; còn như mấy đứa đi biểu tình lăng nhăng thì chỉ làm trò hề chứ được tích sự gì?
Còn với Bác, chỉ với hai câu của Bác cũng đủ chỉ ra tầm vóc của Người, chúng là kim chỉ nam đã dẫn công cuộc giành độc lập của ta đến thành công:      
Chính sách của ta hiện nay là chính sách Câu Tiễn, nhưng nhẫn nhục không phải là khuất phục”; “Chủ nghĩa Mác-Lênin Việt Nam là chủ nghĩa Mác-Lênin có lý có tình!”.
Chính chủ nghĩa dân tộc gắn liền với tinh thần quốc tế vô sản; lý tưởng “dân chủ, cộng hòa, độc lập, tự do” là những nền tảng cơ bản của tư tưởng HCM. Chính vậy tư tưởng của Người đã cao hơn cả Stalin, cao hơn cả Mao Trạch Đông, cao hơn cả mấy ông tổng thống Pháp và Mỹ hồi gây chiến với VN; nó vượt qua ý thức hệ, qua chiến tranh lạnh, qua cả hận thù, và chính là con đường mà thế giới đang đi hôm nay. Chính vậy, từ năm 1923, trên Báo “Ngọn lửa nhỏ”, Ôxip Manđenstam đã viết: “Từ Nguyễn Ái Quốc đã toả ra một thứ văn hoá… có lẽ là một nền văn hoá của tương lai”. Và cũng chính vì thế mà UNESCO đã tôn vinh Người là "Anh hùng giải phóng dân tộc,danh nhân văn hóa" (Hero of national liberation and Great man of culture). Vậy mà Huy Đức, giống như việc lấy bát ăn cơm sao đong được nước biển cả? Lấy gang tay chăm chăm nhặt xu lẻ sao đo được cao rộng của Trời Đất?
Còn các nhà lãnh đạo là những “Học trò xuất sắc của Người” cần phải hiểu họ là những bậc vĩ nhân chứ không phải thánh nhân, mà vĩ nhân thì cũng là người, cũng có những thói tật thường tình của con người. Với tôi, dù những chuyện thâm cung bí sử là có thật đi chăng nữa thì các vị vẫn là những con người buộc ta phải kính phục. Vì trước hết họ từng là những nhà cách mạng đã sẵn sàng xả thân vì nghĩa lớn, bất chấp lao tù, đầu rơi máu chảy, và cuối cùng đã giành lại được nền độc lập cho Tổ quốc, cho chúng ta được sống những ngày yên bình hôm nay.
 Trường Chinh, người trực tiếp lãnh đạo Cách mạng tháng 8 thành công, người cực kỳ nguyên tắc nhưng cũng là người quyết liệt đổi mới, đã trở thành một “Tổng Bí thư của đổi mới”. Nhân cách của ông thật vĩ đại, một lần chịu mất chức TBT nhận kỷ luật thay cho tập thể, một lần từ chức TBT nhường cho thế hệ sau. Ông phải chí công vô tư đến như thế nào, trí tuệ đến như thế nào, để đến như TBT Lê Duẩn cũng luôn quý trọng và rồi tin tưởng trao lại trọng trách cho ông.
Đại tướng Võ Nguyên Giáp, người “anh cả quân đội”, “anh hùng Điện Biên”, “Tổng Tư lệnh” một quân đội bách chiến bách thắng. Trong “Bên thắng cuộc”, Huy Đức cũng đã theo đuôi một số người cũng như các nhà sử học nước ngoài cho rằng vai trò của Đại Tướng bị TBT Lê Duẩn làm lu mờ trong giai đoạn chống Mỹ. Trong khi chính ông viết trong hồi ký: "Với tôi, những năm công tác trong Bộ Chính trị, Anh (Lê Duẩn) đã thường xuyên trao đổi ý kiến, thường là nhanh chóng đi đến nhất trí trong những vấn đề lớn; khi có ý kiến khác nhau thì tranh luận thẳng thắn, những điều chưa nhất trí thì chờ thực tiễn kiểm nghiệm. Lúc mới ra Bắc, Anh thường tâm sự với tôi những khó khăn trong công việc... Từ sau Đại hội III và Đại hội IV, tôi đã ba lần đề nghị Anh là Tổng Bí thư kiêm luôn Bí thư Quân ủy Trung ương, nhưng Anh nói với tôi: “Anh  là Tổng chỉ huy lâu năm nên tiếp tục làm Bí thư Quân ủy Trung ương, như vậy có lợi cho lãnh đạo”. 
Cứ cho những chuyện “thâm cung” quanh đời ông mà Huy Đức kỳ công kể trong “Bên thắng cuộc” là có thật đi chăng nữa thì có hai điều:
Thứ nhất, xã hội chúng ta quả là tốt đẹp, đúng là “cây ngay không sợ chết đứng”. Với chính trị thì cái gì cũng có thể xảy ra. Thời phong kiến, ta từng đau đớn cho số phận của Nguyễn Trãi đã bị tru di tam tộc sau khi có công rất lớn đuổi giặc Minh. Trước nữa bên TQ, Hàn Tín sau khi giúp Lưu Bang lên ngôi Hán Cao tổ, đã bị Lã Hậu chém chết cùng ba họ. Nguyên soái Zhukov, vị anh hùng diệt Phát xít cứu nhân loại, cũng đã bị cách chức đột ngột và bị sỉ nhục công khai. Chủ tịch Lưu Thiếu Kỳ thời Cách mạng Văn hóa thì bị cắt gân chân, khi chết bị thiêu với con số 123. Với nước Mỹ thì gọn hơn, chỉ cần một tay súng núp đâu đó và một con dao, đã có mấy đời tổng thống bị hạ sát. Còn Đại tướng Võ Nguyên Giáp của chúng ta thì vẫn còn đó, vẫn trường thọ.
Thứ hai, nhân cách của ông thật vĩ đại, một vị tướng từng chiến thắng bao quân thù, nhưng với đồng chí, đồng bào, ông lại thật khoan dung, độ lượng, đó là thái độ được hòa quyện bởi một nhà văn hóa và một thiền sư. Chứ ông đâu có như mấy người thuộc lớp đàn em, đàn cháu thuộc cấp, mất tí quyền lợi, tí danh tiếng, đã vội trở cờ, lật lọng, lộ nguyên hình bản tính tầm thường của mình. Vì thế danh tiếng của ông sẽ mãi mãi ngời sáng. Theo wikipedia, Bách khoa toàn thư quân sự Bộ Quốc phòng Mỹ viết: “Tài thao lược của tướng Giáp về chiến lược, chiến thuật và hậu cần được kết hợp nhuần nhuyễn với chính trị và ngoại giao... Sức mạnh hơn hẳn về kinh tế, tính ưu việt về công nghệ cùng với sức mạnh áp đảo về quân sự và hỏa lực khổng lồ của các quốc gia phương Tây đã phải khuất phục trước tài thao lược của một vị tướng từng một thời là thầy giáo dạy sử”. Suốt cuộc đời mình, ông đã thắng 10 đại tướng của Pháp và Mỹ. William Westmoreland gọi ông là "Tướng huyền thoại" (Legendary Giap)!

Theo “Bên thắng cuộc” mà Huy Đức đã cop nhặt từ những “tác phẩm” của Vũ Thư Hiên, Bùi Tín, v.v… Lê Đức Thọ hiện lên như “hung thần” của chế độ.
Với lê Đức Thọ, theo tôi, có lẽ vì ông làm công tác tổ chức cả mấy chục năm, liên quan đến chức tước, quyền lợi, khen thưởng, kỷ luật của cả hệ thống, nên người được thì hàm ơn, còn người mất thì oán thán ông chăng?
Huy Đức đã cố công bôi đen hình ảnh của của ông. Nhưng qua những sự kiện lịch sử và những đánh giá của những người có trọng trách, Lê Đức Thọ trong “Bên thắng cuộc” lại là người có nhiều công trạng và có trách nhiệm cao. 
Huy Đức viết: “Trần Nhâm, thư ký riêng của Trường Chinh, kể: Trong một phiên họp Bộ Chính trị, cụ Duẩn đã ốm lắm nhưng vẫn dự. Ông mặc bộ đồ pi-gia-ma tới, chỉ mặt Lê Đức Thọ: “Có phải có những trung ương ủy viên anh rút từ trong tay áo ra?” Lê Đức Thọ tái mặt” (tr.357).
Trần Nhâm không thể được họp Bộ Chính trị sao có thể thấy “Lê Duẩn chỉ mặt Lê Đức Thọ”?
     Nhưng ở chỗ khác, cũng chính Huy Đức đã viết ngược lại: “ Đối với các trường hợp được giới thiệu vào Bộ Chính trị, theo ông Nguyễn Đức Tâm: “Anh Thọ càng thận trọng xét đi xét lại kỹ lưỡng, báo cáo Bộ Chính trị rồi trao đổi lại với từng người một, cứ như vậy cho đến khi có sự nhất trí trong Bộ Chính trị rồi mới giới thiệu ra Trung ương” (tr. 372).
Còn chuyện tham vọng làm Tổng Bí thư, Huy Đức viết:
Theo ông Đoàn Duy Thành và Hoàng Tùng, … Lê Đức Thọ …xin Lê Duẩn: “… anh giới thiệu với Bộ Chính trị… để tôi thay anh đi”. Ông Lê Duẩn nói: “Với tình hình Đảng ta bây giờ, anh chưa thay tôi được mà phải Trường Chinh”. Tháng 4-1986, Lê Đức Thọ lại đến, lần này … Ông Thọ, được tả là đã quỳ xuống chân Lê Duẩn nhưng bị Lê Duẩn hất ra: “Anh lạ thật, tôi đã từ chối rồi. … Tôi đã nói rồi, Trường Chinh”.
Cứ cho chuyện này hoàn toàn là có thật tôi cũng thấy bình thường, bởi tham vọng quyền lực cũng là lẽ thường. Có điều thể hiện ở mỗi người, mỗi nơi mỗi khác, ở Mỹ thì nó huỵch toẹt cả ra; như Obama trúng cử, cả ông, cả gia đình, cả những người ủng hộ đã mừng vui đến thế nào. Lê Đức Thọ, với tài năng và công lao, ông hoàn toàn xứng đáng làm Tổng bí thư. Còn ông thực sự tham ác, như Huy Đức theo đuôi dư luận đểu thêu dệt về ông, thì với một người nghe nói đã lập ra cả chục ban bệ kiểm soát, có quyền sinh quyền sát với biệt danh “Sáu Búa”, ông hoàn toàn có thể đoạt được quyền lực bằng hành động cực đoan. Nhưng không, khi thấy mình không đủ uy tín, ông đã “chịu thất bại”. Như vậy, ông đúng là có tinh thần dân chủ và là người nghiêm chỉnh phục tùng tổ chức. Còn câu Huy Đức viết ông Lê Duẩn nói với Lê Đức Thọ: “Những khi nào cần nổi danh là anh cứ xin tôi, đi Paris, rồi đi miền Nam khi sắp giành chiến thắng”(tr. 358) thì thật buồn cười, có thể trong một giây phút cáu gắt ông Lê Duẩn nói không chuẩn, còn chuyện đi Pa-ri, chuyện vào chiến trường của Lê Đức Thọ là chuyện đại sự quốc gia, có lẽ nào một vị TBT lại hành xử như vậy!
 Thực tế đã chứng tỏ ngược lại, Lê Đức Thọ từng là nhà cách mạng sẵn sàng quên mình vì nghĩa lớn, mới 15 tuổi đã tham gia hoạt động, 18 tuổi đã bị Pháp bắt tù, chính Huy Đức viết: “Hoàng Tùng, một người cùng quê, bị bắt chung, kể: “Phan Đình Khải (tên thật Lê Đức Thọ) bị tra tấn rất dã man, vẫn không khai về hoạt động bí mật của mình. Sau một lần bị đánh đau trả về buồng giam, trông thấy tôi trong lỗ cửa sổ buồng khác, anh nói nhỏ: ‘Phải dũng cảm, khai thì chết bỏ mẹ đấy’ (tr.440).

Với TBT Lê Duẩn, người lãnh đạo cao nhất nước ta giai đoạn đất nước giành toàn thắng. Cũng thật là bậy bạ khi cũng có dư luận cho ông cùng Lê Đức Thọ làm những chuyện mờ ám. Cả thế giới từng chứng kiến bài điếu tang ông đọc trong lễ truy điệu Bác, có lẽ là hay nhất trong toàn bộ lịch sử thế giới. Chính trong “Bên thắng cuộc” Huy Đức cũng viết: “Khi đứng cạnh linh cữu Hồ Chí Minh, như nằm ngủ trong cỗ quan tài bằng pha lê, trước sự chờ đợi của muôn dân, theo ông Đậu Ngọc Xuân: “Anh Ba khóc. Chưa bao giờ anh khóc, nhưng lần đó anh đã khóc”. Còn có chỗ Huy Đức nhắc lại ý một số người cho TBT Lê Duẩn muốn “vượt mặt Bác”, thì chỗ khác Huy Đức lại viết: “Lê Duẩn đã tuyên bố: “Ở Việt Nam chỉ có Bác xứng đáng làm Chủ tịch Đảng. Ai muốn làm chủ tịch thì cứ làm, tôi không dám”.
Nhiều chi tiết về TBT Lê Duẩn, vì là sự thực, Huy Đức không thể viết khác đi, nên đã khắc họa nên một Lê Duẩn, không chỉ là nhà cách mạng quên mình vì nghĩa lớn mà còn là một con người rất đức độ, tình nghĩa: “đến nhà bà mẹ nào, anh em thư ký, bảo vệ leo lên nhà ngủ, còn anh ngủ dưới ghe”; “Theo quyết định của Trung ương, sau khi sắp xếp tình hình xong, anh sẽ tập kết. Nhưng, anh liên tục điện ra Trung ương và tới lần thứ 3 thì Trung ương và Bác Hồ đồng ý cho anh ở lại”; “nhổ neo, nhưng chỉ ít giờ sau, có một chiếc ca-nô âm thầm cập sát vào thành tàu. Ông Lê Duẩn hôn chia tay vợ con, bà Thụy Nga kể: Nước mắt anh chảy xuống mặt tôi, anh nói: “Anh thương vợ con anh thế nào thì anh cũng thương vợ con đồng bào, đồng chí như thế, nên anh phải ở lại. Em ra Bắc ráng nuôi dạy hai con nên người”.
Khi lần đầu đọc Hồi ký của bà Thụy Nga, bản thân tôi đã quá bất ngờ vì cứ nghĩ  TBT Lê Duẩn quyền uy tuyệt đối sao lại có thể gặp rắc rối vì luật Hôn nhân Gia đình do hoàn cảnh hoạt động cách mạng đặc biệt của ông: “Tôi nói: ‘Các anh chị đề nghị chúng ta ly dị nhau’. Anh khóc và nói: ‘Trong hoàn cảnh nào chúng ta lấy nhau, giờ trong hoàn cảnh nào chúng ta bỏ nhau? Có làm Tổng Bí thư đi nữa mà phải bỏ nhau trong lòng anh sẽ không bao giờ yên ổn. Người cộng sản thì phải có thủy, có chung, có tình có nghĩa’. Tôi khóc”. 
Không chỉ là người chồng tình nghĩa, Lê Duẩn cũng có một tình đồng chí với Trường Chinh thật cao đẹp, nó vượt cao hơn tình người thông thường, một tình cảm vì dân vì nước. Như lẽ thường, TBT Lê Duẩn phải muốn giao quyền cho ông Lê Đức Thọ, người luôn gắn bó với mình, nhưng không, ông đã trao quyền cho Trường Chinh, người ông thấy sẽ gánh vác trọng trách tốt hơn. Với Đại tướng Võ Nguyên Giáp, cũng chính Lê Duẩn đã gạt đi những chuyện rắc rối quanh ông.
Với tư cách nhà lãnh đạo, công trạng bao trùm của Lê Duẩn có lẽ  là việc ông đã truyền cái quyết tâm sắt đá giải phóng Miền Nam của ông cho cả dân tộc. Cuộc tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân năm 1968  đã nổ ra theo ý đồ táo bạo "Một cú đập lớn để tung toé ra các khả năng chính trị" của ông. Một sự kiện lịch sử chấn động cả thế giới. Chúng ta đã phải trả một cái giá rất đắt bằng máu nhưng đã đạt được mục đích vô cùng quan trọng: tạo bước đột phá cho chiến tranh, đánh bại ý chí của Mỹ và buộc Mỹ đi vào đàm phán. Bản lĩnh lãnh đạo, tính kiên quyết của ông cũng đã thể hiện đặc biệt rõ sau chuyến đi của Nixon, Trung Quốc tuyên bố ‘mi không đụng đến ta, ta không đụng đến mi’, mở cửa cho Mỹ ném bom Hà Nội. Khi Chu Ân Lai sang ta, ông đã không thèm bắt tay nói: “Các đồng chí đã bán đứng chúng tôi. Các đồng chí lấy xương máu của dân tộc Việt Nam để trả giá với Mỹ. Chúng tôi biết nhưng chúng tôi  không sợ, chúng tôi sẽ đánh đến cùng và nhất định chúng tôi sẽ thắng”!
Không chỉ là một nhà lãnh đạo kiên quyết, cứng rắn, khi cần Lê Duẩn cũng có một thái độ rất mềm dẻo vì mục đích tối tượng của đất nước. Theo Trần Quỳnh, khi Lê Duẩn được cử sang “kiến nghị Liên Xô xem xét lại quan điểm của mình” trong giai đoạn “xét lại”, phía Liên Xô đã chuẩn bị “phản kích lại ta”. Nhưng khi gặp, Lê Duẩn lại nói về triển vọng của cách mạng Miền Nam và yêu cầu Liên Xô giúp đỡ. Khơ-rút-sốp đã “nhẹ nhõm cả người” và vui vẻ chấp nhận. Cuối cùng Lê Duẩn mới trao bức thư của Đảng ta. Đúng là tuyệt, vẹn cả đôi đường. Rồi chuyện sau giải phóng, Huy Đức viết: “theo ông Đậu Ngọc Xuân: Cu Ba nhiều lần thiết tha mời anh Ba Lê Duẩn sang thăm. Phidel cứ giục mãi, nhiều đồng chí nhắc anh Ba, anh mắng: “Các chú muốn dân đói à?”. Rồi, anh Ba nói với Bộ Ngoại Giao:“Đúng là Phidel sang ta mấy lần, nhưng ta mới thắng Mỹ, sang Cu Ba không tuyên bố chống Mỹ thì Cu Ba không chịu, tuyên bố chống Mỹ thì, các chú thấy, sang cạnh nhà nó chửi nó, nó cấm vận mình suốt đời thì mình chết. Vì lợi ích quốc gia, tôi chưa thể đi được”.          
Riêng chuyện về TBT Lê Duẩn thì quả thật tôi phải cám ơn anh chàng “San Hô” này, vì “Bên thắng cuộc” đã cho biết thêm những điều thú vị về ông.
Còn rất nhiều chuyện viết về “Bên thắng cuộc”, nhưng có lẽ 4 bài của tôi cũng đã nói lên được những nét chính. Để kết lại tôi thấy 2 điều cơ bản:
- Vô cớ khơi gợi nỗi đau người khác, cái điều người ta muốn quên đi, đã là không nên. “Bên thắng cuộc” đã không thế mà lại còn cắt xén, làm sai lệch bản chất sự việc, bôi xấu nhân phẩm người ta, thì thật là bất nhân, như trường hợp anh Lưu Đình Triều chẳng hạn. 
- Không chỉ dừng lại ở chuyện xúc phạm cá nhân, gia đình, dòng tộc, mà Huy Đức còn liều lĩnh xổ toẹt công lao của bao thế hệ quân dân cả nước, những anh hùng liệt sĩ đã hy sinh vì nền độc lập của Tổ quốc, khi viết:
Nhưng không phải chiến trường mà truyền thông Mỹ đã làm thay đổi nhận thức của người dân Mỹ” về chiến tranh VN.
Thật là ngớ ngẩn, không có chiến trường thì truyền thông Mỹ đưa tin gì?
Rồi:
 “Thật khó có thể hình dung điều gì sẽ xảy ra cho miền Bắc Việt Nam nếu như không có sự kiện 30-4-1975. Cuộc chiến được nói là để giải phóng miền Nam trên thực tế còn có tác dụng mở mắt cho người dân miền Bắc”.
Thật là phi lịch sử, phi thực tiễn, mới có cái nhìn lộn ngược như thế!
Thực ra hoàn toàn không phải do ngu dốt mà Huy Đức có cái nhìn khác, mà Huy Đức là người tỉnh táo bình thường nên hoàn toàn hiểu những lẽ hiển nhiên ở đời. Huy Đức viết vậy là đã cố tình nói ngược để mưu cầu những toan tính của mình. Rất mong các cơ quan có chức năng cần có biện pháp thích đáng với Huy Đức. Nếu được tự do xúc phạm người khác, được tự do lộn ngược và bôi đen lịch sử , kích động bất ổn của cả xã hội, sẽ không chỉ xúc phạm đến danh dự cá nhân mà còn là nguy cơ dẫn đến sự mất tự do của cả dân tộc!
Cần phải lên án và ngăn chặn!
TPHCM
21-1-2013
ĐÔNG LA