Chủ Nhật, 18 tháng 11, 2012

Lễ tưởng niệm (Truyện ngắn)


*Nhờ thằng con rể tương lai nó đánh máy từ cuốn sách ra, có những cái sai lặt vặt mà cứ sửa hoài không hết. Như câu "Trời đất! Cơ quan có chuyện gì vậy em?". Dân miền nam nó nói chi chứ không nói .
ĐÔNG LA
Lễ tưởng niệm
(Truyện ngắn)
      TRUYỆN KHÁC:

*Chuyện về hai người (Truyện ngắn)

*BÀI TOÁN (Truyện ngắn)

*NHỮNG KHÚC QUANH CUỘC ĐỜI (Truyện ngắn)

*MẸ MẤT RỒI, HỒN MẸ CÓ CÒN KHÔNG?

Tính đăng một chùm thơ “theo yêu cầu” của bạn Giao, bạn cũ bên Yahoo blog mới gặp lại. Nhưng thôi để lần sau, vì lần này tôi muốn đăng một truyện ngắn để phục vụ cho việc viết về chuyện ông Nguyên Ngọc phất cờ đổi mới khi làm TBT báo Văn Nghệ. Đã mấy chục năm trôi qua, giờ coi lại, tôi thấy hình như chính mình mới là người đổi mới còn mấy “đứa” mà NN “đẻ ra” thực chất không phải đổi mới mà chỉ là "lộn ngược" mà thôi. Tôi sẽ chứng minh vào số tới. Còn dưới đây, tôi sẽ đăng một cái truyện ngắn như là một dẫn chứng.
Đây là truyện ngắn thứ ba của tôi viết năm 1984. Hồi mới viết thì những cái tên như Nguyễn Khải đúng là to như quả núi dù không phải cái gì họ viết ra tôi cũng thích. Trong giới nhà văn, NK cũng được cho là rất thông minh, một Chế Lan Viên trong văn xuôi. Vì vậy tôi rất muốn biết ý kiến của ông về văn của tôi. Nhưng gặp cũng ngại vì tự tiện quấy rầy người khác là điều tôi tối kỵ. Đành lại nhờ cô Anh Thơ viết thư giới thiệu thôi (với NK, bà hơn 10 tuổi, thuộc lớp “đàn chị” mà). Tôi đã mang thư và 3 truyện ngắn đầu tay đến nhà NK ở bên Cảng Sài Gòn, trước khi đi tôi xé tờ lịch ghi “Hôm nay đi gặp nhà văn NK”, coi như một sự kiện lịch sử của đời mình. Tôi đã rất hồi hộp khi bước vào nhà NK, đưa thư của cô Anh Thơ và bản thảo 3 truyện ngắn. NK rất niềm nở tiếp tôi, nhưng không hiểu sao tôi vẫn thấy rất e ngại, không như cảm giác lần đầu gặp CLV, ông chẳng nói gì, chỉ gật đầu chào thôi nhưng lại thấy rất gần gũi. NK bảo để ông xem rồi hẹn ngày trả lời. Tôi ra về, không biết ý NK thế nào, có điều tôi lại rất tự tin, ý tôi muốn là “xem ý NK thế nào?” như một phép thử trong khoa học chứ không phải gặp để rồi lấy ý NK làm chuẩn. Tính tôi luôn ghi nhận tất cả những ý đúng và phủ nhận tất cả những ý sai theo ý tôi, bất kỳ là của ai. Như cô Anh Thơ lúc đầu cũng không khuyến khích tôi viết văn, còn bà Vũ Thị Thường thì bảo tôi không biết làm thơ, vậy tôi nghe ai đây? Thực tế tôi chỉ cười và không nghe ai cả vì hiểu họ thuộc lớp người sáng tác theo năng khiếu; suy nghĩ của họ về nghề  có thể có ý hay trong phạm vi hẹp mà họ rành rẽ, nhưng về lý luận sâu rộng chung thì ý họ khó mà chuẩn được. Nên dù bị bà Thường chê thơ nhưng tôi vẫn tin là CLV nếu đọc thơ tôi nhất định ông sẽ thích nếu ông đúng thông minh như người ta nói. Quả đúng vậy. Với NK tôi cũng nghĩ thế, nếu NK không thích truyện nào trong 3 truyện tôi mang đến thì ông cũng “đếch" phải thông minh như người ta nói. Và rồi ông cũng như CLV đúng là thông minh thật, ông không chê truyện nào cả mà chỉ nói ông thích nhất cái truyện Lễ tưởng niệm mà hôm nay tôi đăng dưới đây. Ông bảo:
- Một đời người viết may ra thì viết được vài cái truyện thế này. Công nhận cái gì có thật vẫn hay.
Tôi trả lời:
- Không phải thật đâu, em bịa đấy! (Ổng có thể đẻ ra tôi được nhưng cứ gọi bừa ông là anh).
- Ồ, bịa như thế mới tài chứ!
Tôi ra về vô cùng mừng rỡ. Không hiểu sao ông còn viết thư cho tôi  nữa, mà hồi đi LX, không biết có phải tại bà xã căm cái chuyện tôi đàn đúm văn chương không chú tâm làm giàu hay không mà đã quẳng nó đi mất tiêu! Còn tôi, những tác phẩm đầu tay, thơ thì được CLV trao giải ngay, còn văn thì NK khen vậy, hỏi làm sao không vui cho được. Có điều chính 2 “bố” đã “hại” tôi, vì lời khen của hai “bố” nên tôi đã đâm đầu vào văn chương, coi nó như sứ mệnh thiêng liêng của đời mình, mà nếu không thế, tôi chỉ làm khoa học rồi chú tâm kinh doanh, có thể tôi đã thành đại gia rồi! Vì thực tế có vài người vì nhờ tôi “giúp một tay” mà họ đã rất giàu có!
1986, Hội Nhà Văn TPHCM có cuộc thi văn, thơ,  tôi đã gởi truyện này, không hiểu cơ chế tổ chức thế nào mà lại đăng trên báo Tuổi trẻ, rồi được nhà văn Vũ Ân Thy mời đến báo Sài Gòn Giải phóng để “xem mặt”. Sau đó cô Anh Thơ bảo: “Ông Trần Thanh Giao gọi điện cho cô bảo mày sẽ được giải đấy”. Cái truyện Hoa mua tím dự thi ở báo Phụ nữ thì bà Thường cũng bảo sẽ được giải đấy. Cuối cùng thì 2 cái truyện tưởng giải đã nằm trong túi thì “đếch” được gì, lý do lằng nhằng kể ra thì dài quá, riêng cái chùm thơ bị loại không được đăng thì lại được chính CLV cho giải ngay tại nhà ông mà không cần phải hỏi “thằng” nào cả! Từ chuyện này tôi mới hiểu đâm đầu vào cái nghề này không phải cứ có tài là thành công, và vì sao các cụ lại gọi nó là “viết lách”! Còn tôi không chỉ Chế Lan Viên và Nguyễn Khải khen, gần như ai hiểu tôi cũng đều công nhận là tôi có tài, vậy mà chẵn 30 trôi qua, người ta viết thì danh, lợi, quyền chức đầy nhà, còn tôi thì đúng là "O tròn như quả trứng gà". Cũng có lúc tôi cáu lắm, nhưng rồi hiểu luật Nhân Quả của Đạo Phật, luật bù trù của Đạo Đời, tôi lại thấy khoái chí vì mình viết mà không được gì. Nguyễn Khải từng khoe may mắn đến phát ngượng, cả nước chia ly trong chiến tranh còn nhà ông luôn đoàn tụ, rồi danh lợi nữa, vậy mà đứa con trai 17 tuổi đã chết đuối ở bãi Sông Hồng, khiến vợ ông đau đến mức đái ra máu tươi! Từ đó, khi nhận phần, ông luôn chọn phần thiếu phần hụt. Mới đây, Hữu Ước, người viết văn đầu tiên lên Trung Tướng, tưởng sắp về hưu mọi chuyện đã viên mãn thì vợ lại bị chết tươi vì tai nạn giao thông, nghĩ mà kinh người về cái luật bù trừ...
Còn một ý nữa muốn kể với các bạn, chính “con bé” Vàng Anh nó cũng thích cái truyện này. Tất nhiên với tính nó thì không nói kiểu: “A H ơi em thích cái truyện của a lắm” mà hôm ở vỉa hè trước NXB Trẻ, đột nhiên gặp nó, nó bảo: “Em có đọc cái truyện… của anh đó”! Chỉ thế thôi, mà với tôi, nó khen thì cũng tốt còn chê thì tôi có "sợ" gì?

Ngay từ sáng sớm, khi tôi đang lúi húi làm thí nghiệm bỗng bà Kim, trưởng phòng cung tiêu, thư ký công đoàn viện, một người tướng đàn ông có dáng đi chữ bát ngửa hềnh hễnh lừng lững vào phòng. Bà hỏi tôi với vẻ sốt sắng:
- Làm gì mà cặm cụi một mình sớm thế cậu? Cô Nhạn đã đến chưa?
- Cô ấy đi họp ngoài Hà Nội cơ mà?
- À, thế mà tôi lại quên mất. Này cậu này, tôi báo cho phòng cậu biết một tin buồn: Ông Huấn chết rồi! Ông ấy bị ung thư dạ dày. Bệnh này mà để đến giai đoạn cuối phải đi cấp cứu như thế thì cậu bảo làm sao mà sống được! Anh Đức họp ngoài ấy đã điện cho tôi…
Trời ơi! Tôi không còn tin vào đôi tai của mình nữa, mặc dù tôi cũng biết lắm tình trạng nguy kịch của bác viện trưởng. Hôm ông đòi đi Bắc điều trị tại bệnh viện Việt Xô, thực ra không chỉ vì muốn được các giáo sư là bạn ông mổ, mà còn vì, nếu không qua khỏi thì ông muốn được chết trên quê. Thể trạng ông đã quá yếu. Hàng tuần lễ ông ăn cái gì vào cũng ói mửa hết. Trông ông không khác gì một thây ma gầy trơ xương, xám xịt. Và mới chiều qua thôi, khi nhận được điện, anh con trai đã cho tôi biết: Khi bác sĩ vừa rạch lớp da bụng, dạ dầy của ông chợt phồng tướng lên như chiếc bong bóng cao su của trẻ em khiến cho các bác sĩ chủ chốt phải tập trung lại hội chẩn. Tuy vậy, tôi vẫn còn hy vọng mong manh. Bởi người trực tiếp mổ cho ông là một giáo sư đầy kinh nghiệm, một nhà khoa học danh tiếng; chính ông đã đưa ra phương pháp cắt dạ dày hổng tràng đã được giới Y học thế giới đánh giá cao. Có lẽ nào… Việc bác viện trưởng mất đi, với chúng tôi, những kỹ sư mới của viện, không chỉ có tình cảm tiếc thương đơn thuần mà còn mất đi một chỗ dựa. Mất ông, chúng tôi có khác gì như rắn mất đầu. Một nỗi trống vắng bỗng tràn ngập lòng tôi. Tôi cảm thấy mình như một chú bé con trong đêm rừng sâu, theo một người thợ săn lành nghề, bất thần một con hổ nhảy ra vồ mất người thợ săn ấy.
Tôi chưa kịp hỏi lại cho rành rẽ câu chuyện thì bà trưởng phòng cung tiêu đã đi ngay, dáng vội vã. Có một vẻ gì đó rất tích cực, sốt sắng trong bộ dạng của bà ấy. Bà ta vốn là một dược tá, cũng dân Bắc đi B đàng hoàng, cùng cơ quan với ông viện phó hồi ở rừng. Vì thế, tất nhiên bà ta thuộc phe ông viện phó.
Nghĩ mà thương bác viện trưởng quá. Cuộc đời ông với bao tâm huyết mà gần như ông chưa làm được việc gì trọn vẹn. Ông kể:
“Có thời tớ đi xây một nhà máy tại Việt Trì, xây gần xong thì mấy thằng phi công Mỹ lại tặng cho mấy quả bom, thế là xong. Đểu thế!”. Rồi: “Có hồi xí nghiệp mình, có cậu làm công đoàn mình bồi dưỡng cho thành anh hùng. Thành anh hùng rồi cậu ấy lại chơi lại mình. Trò đời đúng là hay thật”. Khi thành lập viện này, ông mừng lắm. Chính phương án thành lập viện là của ông. Nghe nói nước ngoài còn viện trợ hàng mấy triệu đô để ông thực hiện nó. Có lần ông nói: “Cậu có biết trong chuỗi phản ứng bán tổng hợp từ Diosgenin có một phản ứng phải cần đến công nghệ sinh học không? Công nhận mấy con vi khuẩn hay thật, có bao nhiêu vị trí trên cái khung steroid mà nó lại gắn đúng cái nhóm chức mình cần vào đúng cái vị trí mình cần! Hay thật”. Ông đã gần 60 tuổi. Đối với các nhà khoa học làm việc chủ yếu bằng kinh nghiệm và trí tuệ thì tuổi này còn đang xoan. Nhưng sức khỏe ông lại không được tốt. Căn bệnh dạ dầy đã gặm mòn cơ thể ông. Có lẽ việc thành lập viện, rồi ông được về làm viện trưởng sẽ là cơ hội cuối cùng để ông thực hiện những ước nguyện của cuộc đời mình. Không ngờ…
- Cậu này!
Tôi giật mình. Mải suy nghĩ nên tôi không biết bà trưởng phòng cung tiêu đã quay lại. Bà tiếp:
- Cậu này, lúc nãy tôi quên mất không nói, tôi muốn cậu đi đặt cho cơ quan một cái vòng hoa lớn. Cậu ra ngoài chỗ Lê Lợi ấy, ngoài đấy có nhiều lắm. Nhớ đi ngay rồi về. Chiều nay công đoàn họp bàn kế hoạch làm tang lễ cho ông ấy. Chiều nay anh Đức cũng đã về, xem binh tình ra sao. Mai cơ quan sẽ tổ chức.
Nói rồi bà xăng xái bỏ đi ngay.
Tôi không nhớ là mình có nhận lời không, chỉ thấy khi nhìn vào đôi mắt ti hí, dưới đôi mi mắt nhẵn bóng, hùm hụp của bà ấy, tôi không chịu được. Không biết có phải do có thành kiến hay không mà tôi nhìn thấy một nụ cười mỉm, một niềm vui man rợ trong cái vẻ trang nghiêm của bà ta. Một con người mà trí tuệ thì rất nghèo nàn song thủ đoạn lại hết sức giầu có. Ai cũng biết, sau lần bác viện trưởng phát biểu: “Tôi chỉ muốn mọi người cùng nhau làm việc hết mình để sớm đưa ra được những quy trình tối ưu. Tôi nghĩ chính cái quy trình sản xuất sẽ sắp xếp đúng đắn vị trí của từng người”. Bà ta đã tỏ ra rất hằn học. Nếu ông viện phó là tổng chỉ huy thì bà là một chiến tướng hùng hổ nhất trong vụ đấu đá này. Bà đã tụ tập tất cả những nhân vật mà bộ máy hành chính cồng kềnh của thời ông Đức từng đẻ ra, những người có nguy cơ không giữ nổi chiếc ghế của mình vì không tìm được chỗ đứng trong cái quy trình nghiêm khắc và khó tính kia. Bà đã tổ chức một cuộc họp công đoàn, thực chất là họp với quân của bà, rồi đưa ra một bản tố cáo bác viện trưởng gồm 10 điểm với rất nhiều chữ ký. Sau đó lại còn kiến nghị với bộ, đưa viện nghiên cứu này trở lại là xí nghiệp sản xuất như cũ.
Không biết có phải tại việc làm độc hại này cùng với việc một người con bị tai nạn của bác mới bị mất đã tiếp tay với căn bệnh ung thư quỷ quái giết chết bác viện trưởng hay không? Ông đã vĩnh viễn ra đi, mang theo bao dự định dở dang và những tâm sự nặng nề…
Tôi chợt nhớ đến việc bà trưởng phòng cung tiêu nhờ, mà tôi cũng muốn mình được làm công việc này. Trong mấy đứa về viện ông có gần gũi với tôi hơn. Bà vợ ông thì quý tôi ra mặt. Bà không đến viện bao giờ, cũng không biết chúng tôi làm gì, nhưng đi đâu bà cũng tuyên bố tôi là đứa giỏi nhất viện. Khi người ta có cảm tình với ai thì rất dễ có thiên vị. Tôi xuống phòng đọc tài liệu ở tầng dưới, nói với mấy đứa phòng tôi đang đọc sách:
- Bác Huấn mất rồi! Bà Kim phòng cung tiêu đã báo cho tớ thế.
- Ổng bị bao tử, sao mất được? -  Nghiêm ngạc nhiên.
- Trời ơi! Tội nghiệp bác ấy quá! -  Thư kêu lên.
Tôi rủ Công:
- Bà Kim nhờ tao đi đặt một cái vòng hoa lớn, tao với mày đi đi.
Công đồng ý. Hai đứa chúng tôi chở nhau ra đại lộ Lê Lợi. Đến nơi, chúng tôi thấy bên những ki-ốt  bán cá cảnh, cây cảnh, người ta bày bán rất nhiều vòng hoa. Một bà đang kết hoa, khung và vòng ngoài cùng là những cành đủng đỉnh, cành măng màu xanh rất tươi, phía giữa là đủ các loài hoa rực rỡ. Bà ấy nói với chúng tôi, nếu người mất mà chưa có gia đình thì kết một vòng toàn cúc trắng, còn đã có rồi thì lấy vòng nhiều màu cũng được. Tôi đặt bà kết một vòng thật lớn, nhưng chỉ có hai mầu thôi, gồm những vòng bông màu trắng xen kẽ những vòng bông màu đỏ. Tôi tự gán cho chúng những ý nghĩa. Màu trắng tượng trưng cho cuộc đời trong sạch, thanh khiết, còn mầu đỏ tượng trưng cho cuộc đời say mê làm việc, suốt đời phấn đấu cho sự nghiệp của bác viện trưởng. Thỏa thuận xong chúng tôi về viện.
Về đến nơi, tôi thấy chị bí thư chi đoàn đang chỉ huy mấy người chuẩn bị phông màn, cắt chữ, lồng ảnh… trang trí cho buổi lễ tưởng niệm. Bà Kim thì đi đi lại lại, lúc chỗ này, lúc chỗ khác, luôn giữ vẻ mặt nghiêm trang của một chủ tang gia. Bà nói với bí thư chi đoàn:
- Cô Tuyết này, phải kiếm một cái bình nhang lớn. Khoa học khoa khiếc gì thì cũng phải có hương có khói chứ.
Đến chiều, chúng tôi đi lấy vòng hoa về, để tạm trên một chiếc bàn. Bà Kim trông thấy liền nói:
- Sao các cậu không đặt làm một cái nhiều mầu cho nó đẹp, lại chọn cái chỉ có hai mầu chòng chọc như thế này!
Chúng tôi im lặng không nói gì.
Sau đó, với tư cách thư ký công đoàn viện, bà triệu tập một cuộc họp gồm một số cán bộ hành chính, cán bộ đoàn thể và mấy đứa nghiên cứu chúng tôi.
Bà nói:
- Tôi xin thông báo cho anh chị em được rõ, hôm qua anh Đức ngoài Hà Nội đã điện cho tôi biết là tình hình đồng chí viện trưởng rất xấu, đồng chí đã bị ung thư rất nặng, đã ở giai đoạn cuối, nên đã không qua khỏi. Đơn vị chúng ta là cơ quan đầu ngành, lại là viện nghiên cứu, nên tôi muốn chúng ta tổ chức một lễ tang thật long trọng để tưởng niệm đồng chí viện trưởng, một nhà khoa học đã có nhiều công lao đóng góp cho sự phát triển của ngành Dược chúng ta. Cũng là để cho các xí nghiệp họ nhìn vào. Tôi muốn chúng ta chuẩn bị sẵn sàng, đâu vào đó, chỉ lát nữa anh Đức sẽ ở ngoài Hà Nội vào, ảnh sẽ chỉ đạo thêm. Tôi đã cho lái xe đi đón ảnh…
Bà ấy nói rất nhiều, rồi một số người phát biểu này nọ. Tôi chán không muốn nghe, thấy trong lòng trĩu nặng. Tôi nhận thấy vẻ côi cút trên khuôn mặt bạn bè. Rồi thời gian sẽ trôi đi vào trong lãng quên của người đời, nhưng tôi tin là sẽ có không ít người vẫn giữ được những kỷ niệm sâu nặng về những ngày làm việc cùng ông. Trong lòng tôi cũng dậy lên niềm chua xót khi nhận thấy có những bộ mặt trang nghiêm giả tạo, vẻ buồn đau giả tạo. Ánh mắt họ chạm nhau đầy ẩn ý.
Chợt tôi thấy phía sau lưng, ngoài hội trường, có người đi vào. Tôi quay lại thì thấy ông Đức và cô Nhạn, trưởng phòng của chúng tôi. Hai người mới ở sân bay về, mặt cô Nhạn còn đỏ lịm vì nắng. Thấy tôi, cô ngạc nhiên hỏi:
- Trời đất! Cơ quan có chuyện chi vậy em?
- Công đoàn họp bàn, chuẩn bị làm lễ tưởng niệm bác Huấn, cô.
Tôi thấy vẻ mặt cô vô cùng ngạc nhiên. Còn ông viện phó thì lẩm bẩm:
- Trời ơi! Thế này thì bả giết tui rồi!
Tôi ngạc nhiên chưa hiểu chuyện gì thì thấy cô Nhạn đi rất nhanh lên phía trên hội trường. Tôi thấy mặt bà trưởng phòng cung tiêu chợt biến sắc. Bà lúng túng trong miệng câu gì đó. Cô Nhạn cầm micro nói lớn:
- Tôi xin báo cho anh chị em biết một tin mừng. Đồng chí viện trưởng của chúng ta vẫn còn sống. Tuy phải cắt gần hết bao tử trong lúc thể trạng vô cùng nguy kịch, chết đi sống lại nhiều lần, tin ảnh chết quả là có lan ra ngoài nhưng thực tế đến nay ảnh vẫn còn sống. Với sự tận tình cứu chữa của những giáo sư là bạn của ảnh nên ảnh đã qua khỏi. Với những phương pháp điều trị rất mới, các giáo sư nói ảnh sẽ về làm việc bình thường nay mai. Sức khỏe sẽ còn khá hơn trước nhiều nữa. Bữa nay, trước khi lên máy bay, tôi có đến thăm ảnh. Tuy không được gặp vì ảnh còn nằm phòng cách ly, nhưng…
Tôi đang sung sướng lắng nghe thì lại thấy có tiếng ai đó đang lầm bầm sau lưng:
- Làm sao lại như thế anh?
- Thì tôi mới điện ổng bị ung thư nặng, chắc chắn là chết, chớ nói ổng chết hồi nào!
- Nhưng… nhưng… anh cũng còn nói cứ chuẩn bị là vừa…
- Thôi đi, thôi đi… Tôi nói chuẩn bị là chuẩn bị tinh thần chứ ai bảo bà làm như vầy!
Tôi quay lại thì nhìn thấy hai bộ mặt đang cúi xuống, bì bì. Một bộ mặt vuông chữ điền xám xịt của bà trưởng phòng cung tiêu, bên cạnh, trên một thân hình loắt choắt, là một bộ mặt trắng bủng xanh mét hình tam giác của ông viện phó. Trong câu chuyện này, có thể công nghệ viễn thông còn yếu kém có lỗi một phần. Nhưng tôi vẫn rất ngạc nhiên trước hành động của họ.
Tôi bỗng cảm thấy ghê tởm những con người này, bởi niềm vui và nỗi buồn của họ cũng nguy hiểm và độc hại như những hành động mà họ gây ra. Chính chúng là những động lực cho những hành động ấy.
Lúc này, phía trên hội trường, tấm phông đã được kéo lại. Mấy cô kỹ sư trẻ của phòng tôi thì đang tranh nhau xé tung vòng hoa, chia hoa cắm vào mấy cái erlen thủy tinh thành những bình hoa nhỏ. Anh chàng quản đốc phân xưởng sản xuất thử đang hét tướng lên, đòi viện phó chi tiền mua thuốc lá, bánh kẹo về liên hoan.
Còn tôi, trong niềm vui vô bờ, sao vẫn cứ dậy lên, dậy lên một nỗi buồn xót xa.

TPHCM
Viết 6/1984