ĐÔNG LA
TS NGUYỄN THỊ TỪ HUY
NGỤP LẶN TRONG ĐỐNG CHỮ
(PHẦN I)
Trong
bài “Ranh giới
cho những khả thể của con người”, đăng cuộc chuyện trò triết học của TS
Nguyễn Thị Từ Huy với Nhà nghiên cứu Bùi Văn Nam Sơn trên trang phebinhvanhoc của Viện Văn học, cô đã
hỏi ông Sơn: “Anh có thể giải thích một
cách giản dị và dễ hiểu về mệnh đề này: “triết học là khoa học của mọi khoa học”?”.
Với tôi, chỉ một câu như vậy, đã biết “sự không
biết” gì của Từ Huy về triết học và khoa học.
Còn Bùi Văn Nam Sơn, tôi đã giật mình khi thấy
Từ Huy viết thế này: “qua những gì
được biết về quá khứ của anh, hình như đối với anh còn có một điều quan trọng
hơn triết học, đó là đất nước này. Anh đã từng hy sinh triết học cho hai
chữ đó: Việt Nam?”.
Hồi tôi có chơi với “đám văn chương” lớn
lên tại miền Nam, có loáng thoáng nghe đến những cái tên như Trần Thái Đỉnh,
Lê Tôn Nghiêm lớp trước và lớp sau là Bùi Văn Nam Sơn. Tôi không quan tâm lắm
vì nghĩ nếu giới trí thức miền Nam trước giải phóng mà giỏi thật thì họ đã
không để cho chính quyền làm “mất nước”! Nay Từ Huy cho biết Bùi Văn Nam Sơn đã “hy sinh triết học cho hai chữ Việt Nam”, không biết là VN nào? Việt
Nam dân chủ cộng hòa hay
Việt Nam
cộng hòa?
Còn Bùi Văn Nam Sơn khi
trả lời Từ Huy quả là người có học triết và rất đúng khi nói: “sự nối mạng giữa các ngành khoa học tự nhiên
và kỹ thuật với các bộ môn khoa học xã hội và nhân văn có thể dẫn đến chỗ hội
tụ thành một văn hóa - khoa học duy nhất. Có người gọi đó là cái khung lý thuyết
triết học”; “triết học có thể giữ
trở lại vai trò của một “khoa học phổ quát”, theo nghĩa là lý thuyết về các
cấu trúc phổ quát của thế giới diễn ngôn” (universe of discourse) như cách
nói ưa chuộng hiện nay”.
Nhưng Bùi Văn Nam Sơn lại rất sai khi nói: “Tóm lại, triết học và khoa học cần đến nhau,
nếu mượn cách nói của Kant: triết học mà không có khoa học thì trống rỗng;
khoa học mà không có triết học thì mù quáng”.
Ở đây có 2 cái sai, một là về cái ý trong câu
nói của Kant, và thứ 2, Kant đã nói khác chứ không “dốt” như vậy.
Tôi vốn dư thời gian, không đi đâu mà vội, hôm
nay nhân dịp người ta lại mang Kan
kiếc ra dọa thiên hạ, tôi thử bàn sâu hơn một chút về nhà triết học này.
Kant, một triết gia được cho là lớn nhất của
thời kỳ cận đại, theo Will Durant: “toàn thể tư tưởng triết học thế kỷ 19 đều xoay
quanh những tư duy của ông”; “Schiller
và Goethe nghiên cứu Kant, Beethoven đầy thán phục trích dẫn câu nói thời danh
của Kant về hai điều kỳ diệu của cuộc đạo đời: "Bầu trời đầy sao ở trên
đầu, luật đạo đức ở trong hồn". (The Story of Philosophy - Trí Hải
và Bửu Đích dịch).
Ở thế kỷ 19, người ta nói vậy là đúng. Còn hôm
nay, dưới ánh sáng của nền văn minh hiện đại, chúng ta thử xem những nét chủ
yếu về tư tưởng của Kant ra sao?
Tư tưởng “phê phán lý tính thuần túy” có thể vẫn còn đúng và đúng mãi mãi khi
Kant đã chỉ ra cái giới hạn của lí tính, đó là nó không thể nhận thức được
cái vô điều kiện (das Unbedingte)
tức những cái không có gì để thực chứng, như tính bất tử của linh hồn, tính vô
biên của vũ trụ hoặc sự tồn tại của
thượng đế. Ngay ngày nay, khi người ta đã tìm ra được Big Bang sinh ra vũ trụ, nhưng cái gì
đã sinh ra Big Bang thì có lẽ không
bao giờ trả lời được. Cũng như Đức Phật giác ngộ thấy linh hồn là thần thức
luân hồi qua các kiếp theo nhân quả, trong 6 cõi sống, nhưng thần thức sinh
ra từ đâu?
Còn cái “cuộc
cách mạng Copernicus nổi danh của Kant” đưa ra thuyết “không thể biết” xuất phát từ việc cho lý tính có tính “an-ti-nô-mi”, tức tách đôi thành những mặt đối lập: Người
ta không nhận thức được vật tự nó (Ding an sich), mà chỉ nhận thức được hiện tượng
(Erscheinung) mà nó thể hiện. Con người cũng không tưởng tượng ra
được những đối tượng không có không gian và thời gian. Theo Schopenhauer:
"Giá trị lớn lao nhất của Kant chính
là sự phân biệt hiện tượng với “vật-tự-nó".
Cái tính “an-ti-nô-mi” trên có thể đúng khi ta suy ngẫm về các hiện tượng xã
hội. Như với nền kinh tế thị trường, tự do làm ăn được khuyến khích đã tạo ra
nhiều của cải, nhưng nó lại cạnh tranh khốc liệt, sinh ra nhiều tệ nạn, làm
thoái hóa thiện tính. Như “tự do dân chủ” rõ ràng là mục tiêu cao đẹp của mỗi
xã hội nhân đạo, nhưng chính nó cũng lại là là mầm mống của bạo loạn, vô chính
phủ; khuyến khích “cái tôi đáng ghét”, làm con cãi cha, trò cãi thầy, điên
lên thì xả súng giết người hàng loạt!
Còn việc khám phá thế giới tự nhiên, xem chừng
những thành tựu của khoa học ngày nay đã vượt xa tư tưởng “thuyết không thể biết” của Kant rất nhiều,
mà bây giờ ông có sống dậy, cũng không thể tưởng tượng ra nổi. Như internet, công nghệ gen, mô hình chuẩn, hạt
Higgs v.v… tất cả đều được nhận thức bằng cách khác, bằng “con mắt” của
khoa học, chứ không phải bằng những “hiện
tượng” từ “vật tự nó” biểu lộ cho
con người thấy theo tư tưởng của Kant.
Còn tư tưởng của I. Kant đúng là duy tâm khi
cho các phạm trù đều có sẵn trong nhận thức. Thế giới có trật tự bởi vì ý thức
biết đến thế giới là một trật tự. Định luật của tư tưởng cũng là định luật
của sự vật. Kant cho rằng với luận lí
tiên nghiệm (transzendentale Logik) thì các khái niệm, tức các phạm trù
(Kategorien), không tuỳ thuộc vào kinh nghiệm (erfahrungsunabhängige
Begriffe). Ông cho tri thức tiên nghiệm là một cái gì đó có sẵn, như kết quả
toán học 7 + 5 = 12 vậy.
Nhưng trong thực tế, có những thí nghiệm
khoa học vĩ đại buộc không chỉ Kant mà cả loài người phải nghĩ ngược lại.
Theo tư tưởng trên của
Kant thì vận tốc ánh sáng phải tuân theo phép cộng vận tốc đúng với nguyên
lý toán học. Tổng vận tốc ánh sáng chiếc đèn pin của người cầm trên máy bay
tất phải nhanh hơn người cầm đèn đứng yên dưới đất. Nhưng không phải vậy,
chính các thí nghiệm tinh xảo của các nhà bác học đã chỉ ra vận tốc ánh sáng
luôn là một hằng số. Và cái thí nghiệm này, với cái kết quả đã làm băn khoăn
chính những người thực hiện, còn nghi ngờ nó sai, chỉ riêng Einstein thì
không nghi ngờ gì cả, ông đã chỉ cho toàn bộ loài người, cả Kant nữa nếu còn
sống, phải nghĩ ngược lại: vận tốc ánh sáng đúng là hằng số, và như thế, không
gian và thời gian là tương đối. Và như thế, tư tưởng
của Kant cho các phạm trù có tính tiên nghiệm không tùy thuộc vào kinh nghiệm
như trên là duy tâm, là sai!
Như vậy sự tồn tại và quy luật của thế giới
hoàn toàn khách quan không phụ thuộc vào ý thức chủ quan của con người. Còn
cùng một kinh nghiệm người ta nhận thức khác nhau là do trình độ và trí thông
minh khác nhau, và dù nhận thức thế nào, thì đối tượng được nhận thức vẫn y
nguyên như nó vốn có.
Còn có lẽ chính câu này của Kant:
"Ý
niệm (suy nghĩ, tâm trí) (Gedanken ) không có nội dung là rỗng tuếch, trực quan
(sự quan sát) (Anschauungen) không có khái niệm là mù quáng"
(Gedanken ohne Inhalt sind leer, Anschauungen ohne Begriffe sind
blind), là câu mà "anh" Bùi Văn Nam Sơn đã “mượn” để trả lời "em" Từ Huy,
nhưng lại viết thành: “triết học mà
không có khoa học thì trống rỗng; khoa học mà không có triết học thì mù quáng”.
Có điều viết vậy là sai! Cũng như câu hỏi “không biết gì” của Từ Huy nói trên: “Anh có thể giải thích một cách giản dị và dễ
hiểu về mệnh đề này: “triết học là khoa học của mọi khoa học”?”. Bởi không
lẽ chính Kant cũng cho triết học có khả năng chỉ lối đưa đường được cho khoa
học? Mà dù Kant có đúng ở thời của ông thì trong thực tiễn khoa học hôm nay
có còn đúng như vậy không?
(Còn tiếp)
(10-12-2012)
TÀI LIỆU
THAM KHẢO:
*Từ điển Triết học (NXB Tiến bộ Maxcơva
và NXB Sự thật Hà Nội, 1986, bản in tại Liên xô); * http://vi.wikipedia.org/wiki/Immanuel_Kant;
*CÂU TRUYỆN TRIẾT HỌC
(Nguyên tác : The Story of Philosophy
- Will Durant - Trí Hải và Bửu Đích dịch); *GSTS Triết học Hồ Sĩ Quý: Immanuel
Kant từ triết học phê phán đến nghiên cứu con người.
|