Vào blog, ngạc
nhiên thấy cái bài rắc rối này lại có trong danh sách “Bài đọc nhiều
nhất”. Thật thú vị khi đọc những lời bình luận 6-7 năm về trước.
3-11-2019
ĐÔNG LA
TS NGUYỄN THỊ TỪ HUY:
"Triết
học là khoa học của mọi khoa học"?
BÀI LIÊN QUAN:
“Triết học là khoa học
của mọi khoa học”? Nếu Từ Huy nói câu này cách nay gần hai thiên kỷ rưỡi
thì đúng, còn ở năm 2012 này, một TS văn chương mà còn nghĩ rồi đặt câu hỏi như
vậy thì thực sự “không biết” gì! Còn “thần tượng” triết học của cô, ông
Bùi Văn Nam Sơn, đã trả lời cô và cho là “Khoa học không có triết học
thì mù quáng” không chỉ sai mà còn là nói ngược.
Thủa sơ khai, chữ triết học (philosophy) bắt nguồn từ Hy Lạp: philosophia (φιλοσοφία),
theo nghĩa đen, tình yêu trí tuệ (philein = "yêu
thích" + sophia = "trí tuệ"). Chữ khoa học từ
tiếng Latin scienta, nghĩa là tri thức. Chữ scientia lại
do chữ scire mà ra, có nghĩa là hiểu biết.
Theo Webter’s New Collegiste Dictionary, “Khoa học” là “những
tri thức đạt được qua kinh nghiệm thực tế và nghiên cứu”. Khi nền văn minh
còn chưa phát triển, thuật ngữ vì thế mà còn ít, nên tất cả những gì thuộc về sự
hiểu biết đã được gọi chung là TRIẾT HỌC, một khái niệm bao gồm cả Triết học và
Khoa học ngày nay. Dù đứng chung như vậy nhưng Khoa học vẫn thiên về quan sát,
tính toán; còn Triết học thiên về suy ngẫm từ những kết quả của khoa học, nghĩa
là khoa học luôn phải đi trước để triết học có cái mà suy ngẫm, như Kant từng
nói: “Ý niệm không có nội dung là rỗng” (Gedanken ohne Inhalt sind
leer). Vì vậy, Bùi Văn Nam Sơn cho Kant nói: “Khoa học mà không có triết học
thì mù quáng” là sai. Với tư cách một người học, nghiên cứu, rồi sống bằng
chính những kết quả nghiên cứu, từng được giải thưởng Sáng tạo KHKT, tôi thấy
câu của Kant: “Anschauungen ohne Begriffe sind blind” dịch là “Quan
sát mà không có lý thuyết khoa học thì mù quáng” là đúng nhất. Chữ Begriffe trong
tiếng Anh là terms, tiếng Việt là ngôn ngữ, thuật ngữ;
mà thuật ngữ thì chính là cách nói tắt của lý thuyết
khoa học.
Khi
Từ Huy “tự thú” với ông Sơn: “Hai từ “triết học” đối với em, thời đại học,
là một nỗi kinh hoàng. Em từng thấy nó trừu tượng, khó hiểu và xa rời cuộc
sống. Hình ảnh triết gia được hình dung như những người khô khan, chỉ biết có
lý tính mà thôi. Rồi đột nhiên, khi vào một môi trường đại học khác, liền ngay
lập tức em bị triết học cuốn hút cho dù biết rằng mình không thể hiểu hết nó”
là Từ Huy đã hồn nhiên thể hiện khả năng tư duy của mình. Một người từng “kinh
hoàng” với môn Triết ở đại học như vậy thì bây giờ sao có thể nghiên cứu rồi
truyền bá triết học? Làm sao có thể hiểu đúng về Hiện tượng học, về NIETZSCHE,
v.v… rồi còn lấy đó làm cơ sở tư tưởng để “dấn thân” đấu tranh nữa?!
Với
tôi, phải chăng vì học một ngành khoa học cơ bản khó hơn nên tôi thấy học triết
không khó. Tôi không chăm chỉ, chỉ gần đến kỳ thi, “liếc qua” bài vở là thi
cũng đậu. Tôi nhớ có kỳ, thầy ra hai đề, đề khó thì ngắn, đề dễ thì dài, trong
lớp chỉ có 2 người chọn đề khó, cuối cùng thì tôi điểm cao, còn người kia trượt
chổng vó. Sau này viết khá nhiều về triết đông tây kim cổ, nhiều người quen đã
hỏi có phải tôi tối ngày rúc đầu vào sách vở hay không, nhưng thực tế không
phải, chỉ khi viết về cái gì đó, tôi mới xem tài liệu mà thôi. Ấy vậy mà tôi
vẫn có thể chỉ ra những cái sai của những người thuộc hàng chuyên gia về triết.
Như vụ ông PGS Ân ở trường Nhân văn, một người dạy ở khoa Triết trên 30 năm,
khi viết phê bình sách Giáo khoa Triết học, đã bị Hội đồng Biên tập kiện, khiến
cho Bộ Giáo dục chỉ thị xuống trường kỷ luật ông Ân. Chính tôi đây đã viết bài
chỉ ra cái sai của Hội đồng Biên tập, giúp ông Ân từng câu chữ một, đã cãi
thắng cả cái Hội đồng đó, làm rung rinh cả Bộ Giáo dục, và cuối cùng, Trường
Nhân văn đã phải hủy kỷ luật ông Ân. Còn tôi thì Tết được ông Ân biếu “rượu
ngoại”! (xin xem: *ĐẤU TRANH
TRÁNH ĐÂU)
Nhìn
vào lịch sử phát triển của khoa học và triết học, ta thấy thực tế không bao giờ
“triết học là khoa học của mọi khoa học” với nghĩa Triết học chỉ lối đưa đường
cho Khoa học cả. Thậm chí ngược lại. Ngày xưa dường như Triết học thường là sự
suy ngẫm của các nhà Khoa học sau những phát minh của họ. Các triết
gia chủ chốt trong hành trình của lịch sử triết học đều là các nhà khoa học.
Aritstốt (384 – 322 TCN) là một nhà triết học đồng
thời là nhà vật lý, nhà sinh học cổ đại. René Descartes (1596–1650), cha đẻ của triết
học hiện đại, là nhà toán học. Immanuel Kant (1724 - 1804) là triết gia lớn
nhất của thời kỳ cận đại cũng là nhà vật lý, từng đưa
ra giả thiết về nguồn gốc vũ trụ. Edmund Gustav Albrecht Husserl (1859 - 1938)
là một triết gia sáng lập Hiện tượng học đồng thời là nhà toán học v.v…
Vì
thế Triết học, theo định nghĩa của Từ điển Triết học, là “khoa học
về các quy luật chung”, nghĩa là một khoa học khái quát, nói nôm na là sự suy
ngẫm để rút ra những quy luật chung. Vì vậy nó phải đi sau, bởi nếu không có
các quy luật cụ thể do Khoa học phát minh ra thì nó khái quát cái gì? Nhất là
trong Duy vật biện chứng, lấy quy luật của vật chất, tức khoa học,
làm “chứng để biện luận”.
Sự dẫn đường chỉ lối của
Khoa học cho Triết học thể hiện cụ thể nhất trong hai vấn đề xương sống của nhận
thức nhân loại sau đây:
Khi Newton đưa
ra thuyết hấp dẫn, chính Laplace đã cho rằng vũ trụ
là tất định. Từ “từ một tọa độ xác định, người ta
có thể xác định được mọi chuyển động xảy ra trong vũ trụ”. Từ
điều này, ông đã đi xa hơn nữa khi áp dụng cho cả các quá trình
xã hội và hành vi con người, đã đưa ra Quyết định luận máy móc,
đồng nhất tính nhân quả với tất yếu, phủ nhận tính ngẫu
nhiên, dẫn đến thuyết định mệnh gắn liền niềm
tin vào thần linh.
Ngược lại, khi Max
Planck phát minh ra lượng tử: Năng lượng của một vật chỉ
phát xạ gián đoạn, từng phần một, tức lượng tử. Tiếp theo
các nhà bác học đã phát hiện ra bản chất nhị nguyên sóng-hạt của
ánh sáng và các hạt vi mô. Từ đó, Heisenberg mới
phát biểu nguyên lý bất định, cơ sở của một cơ học mới: Cơ
học lượng tử. Nguyên lý này, ngoài ý nghĩa khoa học, còn dẫn tới một quan
điểm triết học, một cái nhìn ngược với cái nhìn tất định của quyết
định luận Laplace.
Chính từ đây, hai khuynh
hướng triết học duy tâm và duy vật đã dựa vào
để phát triển tư tưởng theo hai khuynh hướng cũng trái ngược nhau. Chủ nghĩa
duy vật biện chứng khắc phục được sự hạn chế của cái nhìn máy móc theo quyết
định luận Laplace, còn triết học duy tâm đưa ra vô định luận.
Như
vậy chính khoa học phát triển nhanh đến mức mà triết học chạy “bở hơi tai” vẫn
không kịp. Nên nhà bác học tật nguyền thiên tài S.Hawkingmới
nói rằng:
“Đến
thời điểm này, đa số các nhà khoa học quá bận rộn vào việc phát triển những lý
thuyết để trả lời câu hỏi như thế nào và chưa bận tâm đến việc trả lời câu hỏi
vì sao? Mặt khác, những triết gia là những người mà công việc là đặt ra câu hỏi
vì sao, lại không đủ điều kiện để thông tuệ được các lý thuyết hiện đại. Ở
thế kỷ 18, các nhà triết học xem toàn bộ kiến thức của loài người trong đó có
khoa học tự nhiên là thuộc lĩnh vực của họ...? Song đến thế kỷ 19, 20, khoa học
trở nên quá toán học đối với những nhà triết học... Các triết gia giới hạn các
câu hỏi lại đến mức mà Wittgenstein, nhà triết học danh tiếng nhất của thế kỷ
này đã thốt lên: “Nhiệm vụ duy nhất còn lại của triết học là phân tích ngôn ngữ”!
(S.Hawking, Lược sử thời gian, NXB Trẻ, tr. 155, Cao Chi, Phạm
Xuân Thiều dịch).
Trong một bài khác, đăng cuộc nói chuyện khác giữa hai “anh em” Nam Sơn và Từ
Huy, bài “Để biết mình, hãy nhìn vào mắt người khác!”, cũng trên
trang phebinhvanhoc của
Viện Văn. Nguyễn Thị Từ Huy nói: “…lần trước chúng ta có nói vài
điều về Socrates. Bây giờ, có lẽ cần lùi xa hơn để nhớ lại một câu châm ngôn được
xem là linh hồn của tư tưởng Socrates cũng như của nền văn minh phương Tây:
“Hãy tự biết mình!” (Gnothi seauton)”
Socrates
thì tất nhiên là ghê rồi, vì nếu không thế sao ông có thể trở thành bất tử được.
Có điều tư tưởng của ông đã quá quen thuộc, trở thành hiển nhiên, thành châm
ngôn. Tôi thấy giờ mà còn đăng chuyện thảo luận về nó chẳng khác gì “Thừa giấy
làm chi chả vẽ voi”. Cái thời lạc hậu, một anh chàng học ở tỉnh về làng mang
“Socrates” ra dọa mấy anh bạn đi cầy thì đúng là khiến cho người ta nể thật,
còn bây giờ lên mạng bấm một phát là ra tất cả, có cần phải “chuyện trò”, rồi lại
còn đăng lên nữa hay không? Cái chính là giờ Từ Huy có “tự biết mình” hay không
mới là quan trọng? Nếu không, rồi có khi lại tan nát cả sự nghiệp, thậm chí còn
“tiếp bước” đàn anh Cù Huy Hà Vũ vào tù ra tội mà vẫn không “tự biết” được.
Có
lần tôi đã nói với Nguyễn Hữu Sơn, khi còn chưa lên viện phó và Chủ tịch Hội đồng
KH của Viện Văn, là cái “Viện Văn” cần phải mở cửa cho bao nhiêu vấn đề nóng hổi
của cuộc sống liên quan đến văn chương tràn vào. Còn cứ mãi lọ mọ hết công
trình này đến công trình khác, chi li, để có vẻ uyên thâm, hàn lâm, ngụp lặn
trong đống chữ mốc meo, có thể rất cần cho việc tạo nên những danh xưng ghê ghớm,
nhưng có mang lại ích lợi gì cho xã hội không thì thật khó trả lời. Có một nghịch
lý, một nhà nghiên cứu có thể biết rất rõ về cái đề tài mình làm trong phạm vi
chuyên môn, nhưng thực ra lại không biết nó là cái gì, nó như thế nào trong phạm
vi đời sống? Bởi muốn biết nó là cái gì, như thế nào phải đặt nó trong thế so
sánh dưới ánh sáng của cả nền tri thức hiện đại. Mà với mấy con mọt sách bị ngộ
chữ, sa lầy trong vũng hẹp chuyên môn của mình, thì lấy đâu ra tri thức?
Nguyễn
Thị Từ Huy chính là một điển hình cho loại nhà nghiên cứu như thế. Có thể Từ
Huy đúng là rất giỏi trong cái luận án TS của mình, và rất xứng đáng được mấy
ông Thầy Pháp đánh giá là “tối ưu”, nhưng qua một số bài viết và hành động của
cô vừa qua thì cô lại rất ngu ngơ, “không biết” gì.
Trên thethaovanhoa.vn trong bài Tiến
sĩ Nguyễn Thị Từ Huy: Để đi đến sự thật, cần biết tự hoài nghi , chỉ
vài ý trong vài câu, Từ Huy hoàn toàn đúng như mẫu người ngụp lặn trong đống chữ,
bàn về câu nói của Socrates “Hãy tự biết mình!” nhưng chính TH lại
không”tự biết” gì về mình (còn tiếp)
(11-12-2012)
TÀI
LIỆU THAM KHẢO:
*Từ điển Triết học (NXB Tiến bộ Maxcơva và NXB Sự thật Hà Nội,
1986, bản in tại Liên xô); * http://vi.wikipedia.org/wiki/Immanuel_Kant;
*CÂU TRUYỆN TRIẾT HỌC (Nguyên tác : The Story of Philosophy -
Will Durant - Trí Hải và Bửu Đích dịch); *GSTS Triết học Hồ Sĩ Quý: Immanuel
Kant từ triết học phê phán đến nghiên cứu con người.
BÌNH
LUẬN:
Tôi
có biết một giảng viên ĐHYK học Triết chương trình cao học một hôm than thế này :" Hôm qua học
Triết ông thầy làm mình có sự hại não nhẹ. Thầy nói rằng , sáng sớm chúng ta nhìn vào gương
là mình nhưng không phải là mình lại nhận ra chính mình.Nó không phải
là nó và tự nó sẽ phát hiện ra chính nó " . Giảng triết học như vậy thì người ta sợ là phải . Tôi thấy bác ĐL giảng về triết học hay và dễ hiểu vô cùng. Giá mà càng
ngày càng có nhiều bạn trẻ quan tâm đến những bài viết của bác ĐL thì lợi biết bao. Bác ĐL
luôn đi đến tận cùng của vấn đề nên lý lẽ của bác rất thuyết phục , giúp cho những ai muốn biết đâu là sự thật có được nhận thức đúng , từ đó hành động đúng.
ĐÔNG LA:
dân học triết và KHXH và cả những gì liên quan tư tưởng phương đông nữa thường không lý tính hóa được nhận thức của họ, họ thường tưởng tượng ra đủ điều rồi bái phục những cái mà chính họ
cũng không biết là
gì. Như ông Cao Xuân Hạo nói cái cũng có
âm có dương, vậy photon (hạt ánh
sáng), nơtron có vậy o? Tình trạng
chung là thế đấy!
Anonymous • 7 năm trước
Rất mừng khi có nhiều bạn trẻ quan tâm và học hỏi ở bác Đông La. Nhưng bác đừng "truyền"
hết cái tính nóng nảy
của bác nhé!!!
Nhà em nói đây cũng là một cách tự phê với bản thân mình.
Nhà em nói đây cũng là một cách tự phê với bản thân mình.
Bác Đông La ơi cháu đang có 1 câu hỏi tiểu luận đang cần 1 sự định hướng mong bác giúp cháu vạch
ra vài hướng với ạ. Câu hỏi cần giải quyết là: Vai trò của Triết học Mác- Lenin đối với khoa học và khoa học xã hội nhân văn? Từ đó rút ra ý nghĩa và
liên hệ thực tế. Cảm ơn bác nhìu ạ....
ĐÔNG LA:
Là cơ sở lý luận và nguyên lý của
phát triển. Như vật chất quyết định ý thức. Sự bất công trong hưởng thụ thành quả lao động và sự nô dịch là nguyên nhân xảy ra cách mạng xã
hội. Lượng đổi chất đổi. Đấu tranh và thống nhất các mặt đối lập là động lực phát triển. Phủ định của phủ định. nếu cháu hiểu được những cặp phạm trù cơ bản đó thì sẽ giải quyết được thôi
Bác cho cháu sửa lại tên đề tài chút: Vai trò của Triết học Mác - Lênin đối với sự phát triển của khoa học và khoa học xã
hội- nhân văn.
Bác có thể gợi mở vài ý giúp cháu hiểu rõ hơn đc ko ạ? Cháu lên dàn ý cũng tàm tạm rùi nhưng phần nội dung làm sao nói rõ các vai trò thì cháu còn mơ hồ.
Cháu
từng học Triết học ở ĐH rồi nên cũng hiểu qua những điều bác nói trên. Hy vọng bác vạch ra vài ý để cháu thông suốt hơn ạ! Cảm ơn bác nhìu...
ĐÔNG LA:
tot
nhat la chau goi cai dàn ý cho bac se gop y duoc cu the hon
Guest • 6 năm trước
Một câu của anh DongLa tôi chưa
tán thành lắm:
"Ngày xưa dường như Triết học thường là sự suy ngẫm của các nhà Khoa học sau những phát minh của họ."
Không phải "dường như" anh ạ, mà là "chắc chắn", triết học , có thể nói là "thoát thai"
từ những cái gọi là "ức
thuyết khoa học", bất luận nó là triết học gì. Các nhà triết
học thực thụ thì trước hết phải là các nhà khoa học, cụ thể hơn họ phải là các nhà vật lý học vì đây chính là lĩnh vực duy nhất gợi được cảm hứng cho những suy tư "ngay ngắn/khoa học" về thế giới.
Thực tế, những nhà triết học đều là những nhà vật lý. Nói chính xác hơn
họ trực tiếp đưa ra những "định đề" triết học. Họ có thể trực tiếp là những triết gia hoặc là người khởi xướng các triết thuyết.
Những thằng bá vơ không hiểu biết vật lý và toán học mà bàn triết học, tệ hơn còn coi triết học là "khoa học
xã hội" hay "khoa học của các khoa học" thì đương
nhiên là tào lao bất luận nó tên là gì.
Kính bác Đông La
Theo tài liệu bác
gửi cho cháu
Phần đầu là lấy từ “wikipedia”
Phần hai là từ cuốn “Câu chuyện triết học của Will Durant”
Phần ba là từ bài viết “Immanuel Kant từ triết học phê phán đến
nghiên cứu con người” của TS Hồ
Sĩ Quý.
Sĩ Quý.
Phần một: thông tin bị cắt xén, cách dịch
không nhất quán.
Phần hai: một số trích dẫn mà sách đề cập đến (trích từ cuốn Phê bình lý tính thuần túy và Phê bình lý tính thực
tiễn) cháu không tìm thấy.
Phần thứ ba viết, đưa ra nhận xét mà không trích dẫn từ sách của Kant.
Cả ba phần thông tin bác đưa
không giúp cháu giải quyết, làm sáng tỏ
các câu hỏi về Kant mà cháu đã hỏi bác. Vậy nên cháu mong bác dành thời gian một vài bữa để trả lời các câu hỏi mà cháu đã gửi đến cho bác.
các câu hỏi về Kant mà cháu đã hỏi bác. Vậy nên cháu mong bác dành thời gian một vài bữa để trả lời các câu hỏi mà cháu đã gửi đến cho bác.
Đa tạ bác!
Về cá nhân: cháu tên Nguyễn
Văn Nam, hiện cháu là sinh viên
năm nhất trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân Văn Tp. HCM. Cháu tự thấy kiến thức của mình con non kém, mà các thầy trên khoa thì quá bận nên không giúp gì nhiều được cho cháu. May quá lên mạng lại có bác là cao nhân. Chau mong được bác giúp đỡ. Cháu cảm ơn bác!
năm nhất trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân Văn Tp. HCM. Cháu tự thấy kiến thức của mình con non kém, mà các thầy trên khoa thì quá bận nên không giúp gì nhiều được cho cháu. May quá lên mạng lại có bác là cao nhân. Chau mong được bác giúp đỡ. Cháu cảm ơn bác!
ĐÔNG LA:
Cái
trường cháu học quá quen thuộc với bác, con gái bác học
ngữ văn Anh cũng mới ra trường. Khoa triết, khoa văn, sử... thì không ai không biết
bác. Từ từ bác sẽ trả lời, triết học nó không phải cụ thể như 1+1=2 nên nói cho cháu
hiểu thật rõ cũng khó.
Kính bác Đông La,
Nghe danh bác đã lâu,
giờ mới được biết, quả thật bác là con người đa tài. Bài viết của bác có nhiều thuật ngữ mà cháu, người rất kém, vẫn chưa hiểu. Mong bác có thể
bỏ chút thời gian giải thích giùm được
không ạ? Vì hai bài viết của bác cùng một chủ đề nên sau đây cháu viết gộp thành các điểm:
1. Bác viết: “Còn cái “cuộc cách mạng Copernicus nổi danh của Kant” đưa ra thuyết “không thể biết” xuất phát từ việc
cho lý tính có tính “an-ti-nô-mi”, tức tách đôi thành
những mặt đối lập: Người ta không nhận thức được vật tự nó (Ding an sich), mà chỉ nhận thức được hiện tượng (Erscheinung) mà nó thể hiện.” “Vật tự nó” (Ding an
sich) theo Kant là gì? “an-ti-nô-mi” theo Kant là gì? “Erscheinung” theo Kant là gì? “Thuyết không thể biết” của Kant là gì? Và Kant trình bày “lý tính có tính “an-ti-nô-mi”, tức tách đôi thành những mặt đối lập: Người ta không nhận thức được vật tự nó (Ding an sich), mà chỉ nhận thức được
hiện tượng (Erscheinung) mà nó thể hiện.” ở đâu?
cho lý tính có tính “an-ti-nô-mi”, tức tách đôi thành
những mặt đối lập: Người ta không nhận thức được vật tự nó (Ding an sich), mà chỉ nhận thức được hiện tượng (Erscheinung) mà nó thể hiện.” “Vật tự nó” (Ding an
sich) theo Kant là gì? “an-ti-nô-mi” theo Kant là gì? “Erscheinung” theo Kant là gì? “Thuyết không thể biết” của Kant là gì? Và Kant trình bày “lý tính có tính “an-ti-nô-mi”, tức tách đôi thành những mặt đối lập: Người ta không nhận thức được vật tự nó (Ding an sich), mà chỉ nhận thức được
hiện tượng (Erscheinung) mà nó thể hiện.” ở đâu?
2. Bác viết: “Ông cho tri thức tiên nghiệm là
một cái gì đó có sẵn, như kết quả toán học 7 + 5 = 12 vậy.” Vậy Kant trình bày ý này ở
đâu? Kant hiểu
“tiên nghiệm” là gì?
3. Bác viết: “Kant cho rằng với luận lí tiên nghiệm
(transzendentale Logik) thì các khái niệm,
tức các phạm trù (Kategorien), không
tuỳ thuộc vào kinh nghiệm
(erfahrungsunabhängige Begriffe).” Kant trình bày ý này ở đâu ạ? Ở đây bác dịch “transzendentale” là
“tiên nghiệm”, vậy “transzendent” bác dịch
là gì? “Transzendentalien” bác dịch
là gì? “ A priori” bác dịch là gì? Ở đây bác dịch chữ “Begriffe” là “các khái
niệm”, vậy tai sao trong câu “Anschauungen
ohne Begriffe sind blind” bác lại dịch chữ “Begriffe” là “lý thuyết khoa học” cháu nghĩ “lý thuyết” thì khác với “khái niệm” chứ ạ? Và Kant hiểu các chữ này (transzendentale, Transzendentalien, transzendent, a priori, Begriffe) như thế nào?
ohne Begriffe sind blind” bác lại dịch chữ “Begriffe” là “lý thuyết khoa học” cháu nghĩ “lý thuyết” thì khác với “khái niệm” chứ ạ? Và Kant hiểu các chữ này (transzendentale, Transzendentalien, transzendent, a priori, Begriffe) như thế nào?
4. Bác viết: "Ý niệm (suy nghĩ, tâm trí) (Gedanken )
không có nội dung là rỗng tuếch, trực quan (sự quan sát) (Anschauungen)
không có khái niệm là mù quáng"
(Gedanken ohne Inhalt sind leer, Anschauungen ohne Begriffe sind blind),” Câu này Kant viết ở đâu, bác có thể cho cháu số trang của câu này trong sách của Kant được không ạ? Bác dịch “Gedanken” là “ý niệm”, vậy chữ “Idee” (trong cùng cuốn Phê phán lý tính thuần túy của Kant) bác dịch là gì? Và Kant hiểu thế nào là “Gedanken”, thế nào là “Idee”?
(Gedanken ohne Inhalt sind leer, Anschauungen ohne Begriffe sind blind),” Câu này Kant viết ở đâu, bác có thể cho cháu số trang của câu này trong sách của Kant được không ạ? Bác dịch “Gedanken” là “ý niệm”, vậy chữ “Idee” (trong cùng cuốn Phê phán lý tính thuần túy của Kant) bác dịch là gì? Và Kant hiểu thế nào là “Gedanken”, thế nào là “Idee”?
5. Bác viết: “Max Planck phát minh
ra lượng tử”. Vậy chữ “lượng tử” ở đây bác hiểu là gì? Và Max Planck
“phát minh ra lượng tử” năm bao nhiêu?
Bác
là bậc tiền bối, sau khi viết phản biện hay như vậy đối với bài của Từ Huy, thì cháu bác sẽ
dành chút thời gian để trả lời cho kẻ hậu bối này. Chân thành cảm ơn bác. Mong sớm nhận
được hồi âm của bác.
được hồi âm của bác.
ĐÔNG LA:
Với khoa học nó cụ thể thì tôi trả lời ngay được. Trước Planck, người ta cho năng lượng phát xạ của một vật là liên tục, nhưng kết quả thực nghiệm nó vênh với lý
thuyết, nên Planck cho sự phát xạ là gián đoạn, từng phần một (tức lượng tử), và ông đã đúng. Còn vào năm nào thì tôi không phải
mọt sách nên o nhớ, muốn biết tra dễ thôi. Còn về triết học tôi sẽ gởi cho bạn một ít tài liệu mà qua đó tôi đã viết,
bạn xem có thể tự trả lời được không? Vì bạn hỏi nhiều mà tôi lại rất
bận vì đang quan tâm điều khác.
bạn xem có thể tự trả lời được không? Vì bạn hỏi nhiều mà tôi lại rất
bận vì đang quan tâm điều khác.
Cảm ơn bác.
Cháu thắc mắc câu "Max Planck phát minh ra lượng tử". Vì mấy ông
thầy trên trường cháu nói rằng cái gì có sẵn thì không "phát minh" ra
được, chỉ là "phát hiện" ra thôi. Bác nói đúng rằng năng lượng phát
xạ của một vật là gián đoạn, đó là lượng tử. Cháu cũng thường nghe nói kiểu
như: Max Planck xây dựng, đặt nền móng hay thiết lập "thuyết lượng
tử" (quantum theory) hơn là câu "Max Planck phát minh ra lượng
tử".
thầy trên trường cháu nói rằng cái gì có sẵn thì không "phát minh" ra
được, chỉ là "phát hiện" ra thôi. Bác nói đúng rằng năng lượng phát
xạ của một vật là gián đoạn, đó là lượng tử. Cháu cũng thường nghe nói kiểu
như: Max Planck xây dựng, đặt nền móng hay thiết lập "thuyết lượng
tử" (quantum theory) hơn là câu "Max Planck phát minh ra lượng
tử".
Cháu đang đọc bài bác gửi, viết về Kant của Tiến sĩ Hồ Sĩ Quý. Ngay đoạn thứ
4, thứ 5 có viết "Trong phần thứ hai, phần luận lí TIÊN NGHIỆM
(transzendentale Logik)," nhưng cách đó vài trang, (trang 5 theo cách cháu
đánh số trang với cỡ chữ là 12, font Helvetica), TS. Hồ Sĩ Quý lại viết
"Những cảm nhận không thôi cũng chưa dẫn đến các khái niệm (Begriff). Kant phát huy tư tưởng của mình
trong phần nói về Luận lí SIÊU NGHIỆM (transzendentale Logik)." Điều này
càng khiến cháu hoang mang hơn.
4, thứ 5 có viết "Trong phần thứ hai, phần luận lí TIÊN NGHIỆM
(transzendentale Logik)," nhưng cách đó vài trang, (trang 5 theo cách cháu
đánh số trang với cỡ chữ là 12, font Helvetica), TS. Hồ Sĩ Quý lại viết
"Những cảm nhận không thôi cũng chưa dẫn đến các khái niệm (Begriff). Kant phát huy tư tưởng của mình
trong phần nói về Luận lí SIÊU NGHIỆM (transzendentale Logik)." Điều này
càng khiến cháu hoang mang hơn.
Công thêm đoạn này "các trực
quan cảm năng kinh nghiệm
(empirische Anschauungen
der Sinnlichkeit) được phối hợp (Synthesis) với những ý tưởng của giác tính
(Vorstellungen des Verstandes). Cảm năng (Sinnlichkeit) (cảm giác nhục dục)
vàgiác tính (Verstand) (tâm trí) là hai nguồn tri thức duy nhất, ngang hàng và
hệ thuộc lẫn nhau. "Ý niệm không có nội dung là rỗng tuếch, trực quan
không có khái niệm là mù quáng" (Gedanken ohne Inhalt sind leer,
Anschauungen ohne Begriffe sind blind.)" KHÔNG HỀ GHI TRÍCH DẪN TỪ ĐÂU.
der Sinnlichkeit) được phối hợp (Synthesis) với những ý tưởng của giác tính
(Vorstellungen des Verstandes). Cảm năng (Sinnlichkeit) (cảm giác nhục dục)
vàgiác tính (Verstand) (tâm trí) là hai nguồn tri thức duy nhất, ngang hàng và
hệ thuộc lẫn nhau. "Ý niệm không có nội dung là rỗng tuếch, trực quan
không có khái niệm là mù quáng" (Gedanken ohne Inhalt sind leer,
Anschauungen ohne Begriffe sind blind.)" KHÔNG HỀ GHI TRÍCH DẪN TỪ ĐÂU.
NHỮNG ĐIỀU NÀY CÀNG KHIẾN
CHÁU HOANG MANG, chắc cháu chưa đủ tầm để hiểu,
nên có thể cháu sẽ làm phiền bác nữa. (Cháu nghĩ với người có tâm có tầm có khả
năng như bác thì trả lời những câu thắc mắc của cháu trong comment trước không
quá khó đâu ạ. Bác cứ thong thả dăm ba bữa trả lời cháu cũng không sao ạ. Cháu
cảm ơn bác!).
nên có thể cháu sẽ làm phiền bác nữa. (Cháu nghĩ với người có tâm có tầm có khả
năng như bác thì trả lời những câu thắc mắc của cháu trong comment trước không
quá khó đâu ạ. Bác cứ thong thả dăm ba bữa trả lời cháu cũng không sao ạ. Cháu
cảm ơn bác!).
ĐÔNG LA:
Tại mấy ông thầy của cháu không hiểu phát minh cũng như phát hiện thôi, chỉ phát minh ra những
cái có sẵn mà người ta chưa biết, những cái có ý nghĩa khoa học lớn lao thì gọi là
phát minh, chứ o ai phát minh ra cái
không có. Với Planck nên nói ông là
phát minh ra lượng tử, là người đặt viên gạch đầu, còn thuyết lượng tử rất rộng, có rất nhiều bác học xây dựng, cùng với thuyết tương đối là 2 trụ cột của vật lý hiện đại. Còn Thuyết Tương đối thì một mình Einstein làm ra
thôi, ông được coi là vĩ đại nhất là vì thế. Còn triết học nói chung không khó, nó
khó vì người ta trình bầy không rõ, về những điều chính người ta cũng không rõ luôn, kể
cả những nhà triết học như Kant. Triết học là quy luật
chung cần suy ngẫm. Nên muốn hiểu triết học và giá trị của nó phải hiểu khoa học và cuộc sống, còn không thì chỉ như con mọt sách thôi, nhiều khi
người ta huyên thuyên mà
không hiểu gì. Như ông TMH viết “tương đối duy tâm”, “tương đối duy vật” là ông ta mù đặc. Từ từ tôi sẽ trả lời cháu từng ý 1, chứ mấy câu cháu hỏi có thể làm được mấy cái bằng TS đấy. Cháu là ai? Ở đâu?
ĐÔNG LA • 7 năm trước
Đúng
là đoạn trích trên trong cuốn
Lược sử thời gian http://www.taybacuniversity..., tôi
đã trích khi viết
tranh luận với Đỗ Minh Tuấn từ năm 1997, đăng trên VNQĐ và đã được tặng thưởng của năm. Chuyện Quyết định luận và Vô định luận tôi cũng coi từ cuốn sách đó do chính S.Hawking viết.
Cám ơn bạn đã chia sẻ.
9X • 7 năm trước
Bác
viết hay quá, nhất là cái đoạn "Triết học thiên về suy ngẫm từ những kết quả của khoa học, nghĩa là khoa học luôn phải đi trước để triết học có cái mà suy ngẫm".
Trước nay cháu vẫn nghĩ triết học là ghê gớm lắm, rồi nghe đến bác Nam Sơn là nghĩ đến núi Thái Sơn học thuật rồi. Nay nghe bác giảng
giải mới vỡ ra nhiều điều... Cũng tâm đắc với bác là để giỏi triết học thì trước hết phải giỏi KH tự nhiên, kể cả làm anh nhà văn,
nhà thơ nếu giỏi về tự nhiên thì mới không viết lăng nhăng (như cái ông nhà thơ Đỗ Hoàng(?)có viết câu
thơ-toán gì đó mà hình như bác đã phê phán) phải
không bác.
Xin hỏi bác thêm là cái đoạn "Nên nhà bác học tật nguyền thiên tài S.Hawking mới nói rằng...", bác có thể dẫn nguồn ông ấy nói ở đâu, khi nào được không?... Chờ đọc bài tiếp theo của bác về chủ đề này (vì nghe bác nói là bác đang rảnh rỗi thì phải). "Ông Đông La đó chính là... Thầy ta" :D
Chúc vui nghe bác.
Xin hỏi bác thêm là cái đoạn "Nên nhà bác học tật nguyền thiên tài S.Hawking mới nói rằng...", bác có thể dẫn nguồn ông ấy nói ở đâu, khi nào được không?... Chờ đọc bài tiếp theo của bác về chủ đề này (vì nghe bác nói là bác đang rảnh rỗi thì phải). "Ông Đông La đó chính là... Thầy ta" :D
Chúc vui nghe bác.
Mình đã gặp tác giả bài viết đó, tối qua đã bia bọt rồi. Cám ơn các bạn
Anonymous • 7 năm trước
Chú Đông La ơi có bài này hay lắm:
ĐÔI LỜI VỚI TS NGUYỄN THỊ TỪ HUY TỪ “TRAO ĐỔI VỚI ĐÔNG LA”
http://hosodanchu.wordpress...
Chúc chú mạnh khỏe nhé, cháu vẫn bên chú. T.NHa Trang
ĐÔI LỜI VỚI TS NGUYỄN THỊ TỪ HUY TỪ “TRAO ĐỔI VỚI ĐÔNG LA”
http://hosodanchu.wordpress...
Chúc chú mạnh khỏe nhé, cháu vẫn bên chú. T.NHa Trang