Chủ Nhật, 3 tháng 11, 2019

TS NGUYỄN THỊ TỪ HUY: "Triết học là khoa học của mọi khoa học"?


Vào blog, ngạc nhiên thấy cái bài rắc rối này lại có trong danh sách “Bài đọc nhiều nhất”. Thật thú vị khi đọc những lời bình luận 6-7 năm về trước.
3-11-2019
ĐÔNG LA

TS NGUYỄN THỊ TỪ HUY: 
"Triết học là khoa học của mọi khoa học"?

BÀI LIÊN QUAN:

Triết học là khoa học của mọi khoa học”? Nếu Từ Huy nói câu này cách nay gần hai thiên kỷ rưỡi thì đúng, còn ở năm 2012 này, một TS văn chương mà còn nghĩ rồi đặt câu hỏi như vậy thì  thực sự “không biết” gì! Còn “thần tượng” triết học của cô, ông Bùi Văn Nam Sơn, đã trả lời cô và cho là  “Khoa học không có triết học thì mù quáng” không chỉ sai mà còn là nói ngược.
         Thủa sơ khai, chữ triết học (philosophy) bắt nguồn từ Hy Lạp: philosophia (φιλοσοφία), theo nghĩa đen, tình yêu trí tuệ (philein = "yêu thích" + sophia = "trí tuệ"). Chữ khoa học từ tiếng Latin scienta, nghĩa là tri thức. Chữ scientia lại do chữ scire mà ra, có nghĩa là hiểu biết. Theo Webter’s New Collegiste Dictionary, “Khoa học” là “những tri thức đạt được qua kinh nghiệm thực tế và nghiên cứu”. Khi nền văn minh còn chưa phát triển, thuật ngữ vì thế mà còn ít, nên tất cả những gì thuộc về sự hiểu biết đã được gọi chung là TRIẾT HỌC, một khái niệm bao gồm cả Triết học và Khoa học ngày nay. Dù đứng chung như vậy nhưng Khoa học vẫn thiên về quan sát, tính toán; còn Triết học thiên về suy ngẫm từ những kết quả của khoa học, nghĩa là khoa học luôn phải đi trước để triết học có cái mà suy ngẫm, như Kant từng nói: “Ý niệm không có nội dung là rỗng” (Gedanken ohne Inhalt sind leer). Vì vậy, Bùi Văn Nam Sơn cho Kant nói: “Khoa học mà không có triết học thì mù quáng” là sai. Với tư cách một người học, nghiên cứu, rồi sống bằng chính những kết quả nghiên cứu, từng được giải thưởng Sáng tạo KHKT, tôi thấy câu của Kant: “Anschauungen ohne Begriffe sind blind” dịch là “Quan sát mà không có lý thuyết khoa học thì mù quáng” là đúng nhất. Chữ Begriffe trong tiếng Anh là terms, tiếng Việt là ngôn ngữ, thuật ngữ; mà thuật ngữ thì chính là cách nói tắt của lý thuyết khoa học.
Khi Từ Huy “tự thú” với ông Sơn: “Hai từ “triết học” đối với em, thời đại học, là một nỗi kinh hoàng. Em từng thấy nó trừu tượng, khó hiểu  và xa rời cuộc sống. Hình ảnh triết gia được hình dung như những người khô khan, chỉ biết có lý tính mà thôi. Rồi đột nhiên, khi vào một môi trường đại học khác, liền ngay lập tức em bị triết học cuốn hút cho dù biết rằng mình không thể hiểu hết nó” là Từ Huy đã hồn nhiên thể hiện khả năng tư duy của mình. Một người từng “kinh hoàng” với môn Triết ở đại học như vậy thì bây giờ sao có thể nghiên cứu rồi truyền bá triết học? Làm sao có thể hiểu đúng về Hiện tượng học, về NIETZSCHE, v.v… rồi còn lấy đó làm cơ sở tư tưởng để “dấn thân” đấu tranh nữa?!
            Với tôi, phải chăng vì học một ngành khoa học cơ bản khó hơn nên tôi thấy học triết không khó. Tôi không chăm chỉ, chỉ gần đến kỳ thi, “liếc qua” bài vở là thi cũng đậu. Tôi nhớ có kỳ, thầy ra hai đề, đề khó thì ngắn, đề dễ thì dài, trong lớp chỉ có 2 người chọn đề khó, cuối cùng thì tôi điểm cao, còn người kia trượt chổng vó. Sau này viết khá nhiều về triết đông tây kim cổ, nhiều người quen đã hỏi có phải tôi tối ngày rúc đầu vào sách vở hay không, nhưng thực tế không phải, chỉ khi viết về cái gì đó, tôi mới xem tài liệu mà thôi. Ấy vậy mà tôi vẫn có thể chỉ ra những cái sai của những người thuộc hàng chuyên gia về triết. Như vụ ông PGS Ân ở trường Nhân văn, một người dạy ở khoa Triết trên 30 năm, khi viết phê bình sách Giáo khoa Triết học, đã bị Hội đồng Biên tập kiện, khiến cho Bộ Giáo dục chỉ thị xuống trường kỷ luật ông Ân. Chính tôi đây đã viết bài chỉ ra cái sai của Hội đồng Biên tập, giúp ông Ân từng câu chữ một, đã cãi thắng cả cái Hội đồng đó, làm rung rinh cả Bộ Giáo dục, và cuối cùng, Trường Nhân văn đã phải hủy kỷ luật ông Ân. Còn tôi thì Tết được ông Ân biếu “rượu ngoại”! (xin xem: *ĐẤU TRANH TRÁNH ĐÂU)
Nhìn vào lịch sử phát triển của khoa học và triết học, ta thấy thực tế không bao giờ “triết học là khoa học của mọi khoa học” với nghĩa Triết học chỉ lối đưa đường cho Khoa học cả. Thậm chí ngược lại. Ngày xưa dường như Triết học thường là sự suy ngẫm của các nhà Khoa học sau những phát minh của họ. Các triết gia chủ chốt trong hành trình của lịch sử triết học đều là các nhà khoa học. Aritstốt (384 – 322 TCN) là một nhà triết học đồng thời là nhà vật lý, nhà sinh học cổ đại.  René Descartes (15961650), cha đẻ của triết học hiện đại, là nhà toán học. Immanuel Kant (1724 - 1804) là triết gia lớn nhất của thời kỳ cận đại cũng là nhà vật lý, từng đưa ra giả thiết về nguồn gốc vũ trụ. Edmund Gustav Albrecht Husserl (1859 - 1938) là một triết gia sáng lập Hiện tượng học đồng thời là nhà toán học v.v…
Vì thế Triết học, theo định nghĩa của Từ điển Triết học, là “khoa học về các quy luật chung”, nghĩa là một khoa học khái quát, nói nôm na là sự suy ngẫm để rút ra những quy luật chung. Vì vậy nó phải đi sau, bởi nếu không có các quy luật cụ thể do Khoa học phát minh ra thì nó khái quát cái gì? Nhất là trong Duy vật biện chứng, lấy quy luật của vật chất, tức khoa học, làm “chứng để biện luận”.
Sự dẫn đường chỉ lối của Khoa học cho Triết học thể hiện cụ thể nhất trong hai vấn đề xương sống của nhận thức nhân loại sau đây:
Khi Newton đưa ra thuyết hấp dẫn, chính Laplace đã cho rằng vũ trụ là tất định. Từ “từ một tọa độ xác định, người ta có thể xác định được mọi chuyển động  xảy ra trong vũ trụTừ điều này, ông đã đi xa hơn nữa khi áp dụng  cho cả các quá trình xã hội và hành vi con người, đã đưa ra Quyết định luận máy móc, đồng nhất tính nhân quả với tất yếu, phủ nhận tính ngẫu nhiên, dẫn đến thuyết định mệnh gắn liền niềm tin vào thần linh.
Ngược lại, khi Max Planck phát minh ra lượng tử: Năng lượng của một vật chỉ phát xạ gián đoạn, từng phần một, tức lượng tử. Tiếp theo các nhà bác học đã phát hiện ra bản chất nhị nguyên sóng-hạt của ánh sáng và các hạt vi mô. Từ đó, Heisenberg mới phát biểu nguyên lý bất định, cơ sở của một cơ học mới: Cơ học lượng tử. Nguyên lý này, ngoài ý nghĩa khoa học, còn dẫn tới một quan điểm triết học, một cái nhìn ngược với cái nhìn tất định của quyết định luận Laplace.
Chính từ đây, hai khuynh hướng triết học duy tâm và duy vật đã dựa vào để phát triển tư tưởng theo hai khuynh hướng cũng trái ngược nhau. Chủ nghĩa duy vật biện chứng khắc phục được sự hạn chế của cái nhìn máy móc theo quyết định luận Laplace, còn triết học duy tâm đưa ra vô định luận.
Như vậy chính khoa học phát triển nhanh đến mức mà triết học chạy “bở hơi tai” vẫn không kịp. Nên nhà bác học tật nguyền thiên tài  S.Hawkingmới nói rằng:
Đến thời điểm này, đa số các nhà khoa học quá bận rộn vào việc phát triển những lý thuyết để trả lời câu hỏi như thế nào và chưa bận tâm đến việc trả lời câu hỏi vì sao? Mặt khác, những triết gia là những người mà công việc là đặt ra câu hỏi vì sao, lại không đủ điều kiện để thông tuệ được các lý thuyết hiện đại. Ở  thế kỷ 18, các nhà triết học xem toàn bộ kiến thức của loài người trong đó có khoa học tự nhiên là thuộc lĩnh vực của họ...? Song đến thế kỷ 19, 20, khoa học trở nên quá toán học đối với những nhà triết học... Các triết gia giới hạn các câu hỏi lại đến mức mà Wittgenstein, nhà triết học danh tiếng nhất của thế kỷ này đã thốt lên: “Nhiệm vụ duy nhất còn lại của triết học là phân tích ngôn ngữ”! (S.Hawking, Lược sử thời gian, NXB Trẻ, tr. 155, Cao Chi, Phạm Xuân Thiều dịch).
       Trong một bài khác, đăng cuộc nói chuyện khác giữa hai “anh em” Nam Sơn và Từ Huy, bài “Để biết mình, hãy nhìn vào mắt người khác!”, cũng trên trang  phebinhvanhoc của Viện Văn.  Nguyễn Thị Từ Huy nói: “…lần trước chúng ta có nói vài điều về Socrates. Bây giờ, có lẽ cần lùi xa hơn để nhớ lại một câu châm ngôn được xem là linh hồn của tư tưởng Socrates cũng như của nền văn minh phương Tây: “Hãy tự biết mình!” (Gnothi seauton)”
Socrates thì tất nhiên là ghê rồi, vì nếu không thế sao ông có thể trở thành bất tử được. Có điều tư tưởng của ông đã quá quen thuộc, trở thành hiển nhiên, thành châm ngôn. Tôi thấy giờ mà còn đăng chuyện thảo luận về nó chẳng khác gì “Thừa giấy làm chi chả vẽ voi”. Cái thời lạc hậu, một anh chàng học ở tỉnh về làng mang “Socrates” ra dọa mấy anh bạn đi cầy thì đúng là khiến cho người ta nể thật, còn bây giờ lên mạng bấm một phát là ra tất cả, có cần phải “chuyện trò”, rồi lại còn đăng lên nữa hay không? Cái chính là giờ Từ Huy có “tự biết mình” hay không mới là quan trọng? Nếu không, rồi có khi lại tan nát cả sự nghiệp, thậm chí còn “tiếp bước” đàn anh Cù Huy Hà Vũ vào tù ra tội mà vẫn không “tự biết” được.
Có lần tôi đã nói với Nguyễn Hữu Sơn, khi còn chưa lên viện phó và Chủ tịch Hội đồng KH của Viện Văn, là cái “Viện Văn” cần phải mở cửa cho bao nhiêu vấn đề nóng hổi của cuộc sống liên quan đến văn chương tràn vào. Còn cứ mãi lọ mọ hết công trình này đến công trình khác, chi li, để có vẻ uyên thâm, hàn lâm, ngụp lặn trong đống chữ mốc meo, có thể rất cần cho việc tạo nên những danh xưng ghê ghớm, nhưng có mang lại ích lợi gì cho xã hội không thì thật khó trả lời. Có một nghịch lý, một nhà nghiên cứu có thể biết rất rõ về cái đề tài mình làm trong phạm vi chuyên môn, nhưng thực ra lại không biết nó là cái gì, nó như thế nào trong phạm vi đời sống? Bởi muốn biết nó là cái gì, như thế nào phải đặt nó trong thế so sánh dưới ánh sáng của cả nền tri thức hiện đại. Mà với mấy con mọt sách bị ngộ chữ, sa lầy trong vũng hẹp chuyên môn của mình, thì lấy đâu ra tri thức?
Nguyễn Thị Từ Huy chính là một điển hình cho loại nhà nghiên cứu như thế. Có thể Từ Huy đúng là rất giỏi trong cái luận án TS của mình, và rất xứng đáng được mấy ông Thầy Pháp đánh giá là “tối ưu”, nhưng qua một số bài viết và hành động của cô vừa qua thì cô lại rất ngu ngơ, “không biết” gì.  
            Trên thethaovanhoa.vn trong bài Tiến sĩ Nguyễn Thị Từ Huy: Để đi đến sự thật, cần biết tự hoài nghi , chỉ vài ý trong vài câu, Từ Huy hoàn toàn đúng như mẫu người ngụp lặn trong đống chữ, bàn về câu nói của Socrates “Hãy tự biết mình!” nhưng chính TH lại không”tự biết” gì về mình (còn tiếp)
 (11-12-2012)
TÀI LIỆU THAM KHẢO:
     *Từ điển Triết học (NXB Tiến bộ Maxcơva và NXB Sự thật Hà Nội, 1986, bản in tại Liên xô); * http://vi.wikipedia.org/wiki/Immanuel_Kant; *CÂU TRUYỆN TRIẾT HỌC (Nguyên tác : The Story of Philosophy - Will Durant - Trí Hải và Bửu Đích dịch); *GSTS Triết học Hồ Sĩ Quý:  Immanuel Kant từ triết học phê phán đến nghiên cứu con người.

BÌNH LUẬN:
Top of Form

Bottom of Form
Tôi có biết mt ging viên ĐHYK hc Triết chương trình cao hc mt hôm than thế này :" Hôm qua hc Triết ông thy làm mình có s hi não nh. Thy nói rng , sáng sm chúng ta nhìn vào gương là mình nhưng không phi là mình li nhn ra chính mình.Nó không phi là nó và t nó s phát hin ra chính nó " . Ging triết hc như vy thì người ta s là phi . Tôi thy bác ĐL ging v triết hc hay và d hiu vô cùng. Giá mà càng ngày càng có nhiu bn tr quan tâm đến nhng bài viết ca bác ĐL thì li biết bao. Bác ĐL luôn đi đến tn cùng ca vn đề nên lý l ca bác rt thuyết phc , giúp cho nhng ai mun biết đâu là s tht có được nhn thc đúng , t đó hành động đúng.

ĐÔNG LA:
dân hc triết và KHXH và c nhng gì liên quan tư tưởng phương đông na thường không lý tính hóa được nhn thc ca h, h thường tưởng tượng ra đủ điu ri bái phc nhng cái mà chính h cũng không biết là gì. Như ông Cao Xuân Ho nói cái cũng có âm có dương, vy photon (ht ánh sáng), nơtron có vy o? Tình trng chung là thế đấy!

Anonymous  7 năm trước
Rt mng khi có nhiu bn tr quan tâm và hc hi bác Đông La. Nhưng bác đừng "truyn" hết cái tính nóng ny ca bác nhé!!!
Nhà em nói
đây cũng là mt cách t phê vi bn thân mình.

Bác Đông La ơi cháu đang có 1 câu hi tiu lun đang cn 1 s định hướng mong bác giúp cháu vch ra vài hướng vi . Câu hi cn gii quyết là: Vai trò ca Triết hc Mác- Lenin đối vi khoa hc và khoa hc xã hi nhân văn? T đó rút ra ý nghĩa và liên h thc tế. Cm ơn bác nhìu ....

ĐÔNG LA:
Là cơ s lý lun và nguyên lý ca phát trin. Như vt cht quyết định ý thc. S bt công trong hưởng th thành qu lao động và s nô dch là nguyên nhân xy ra cách mng xã hi. Lượng đổi cht đổi. Đấu tranh và thng nht các mt đối lp là động lc phát trin. Ph định ca ph định. nếu cháu hiu được nhng cp phm trù cơ bn đó thì s gii quyết được thôi

Bác cho cháu sa li tên đề tài chút: Vai trò ca Triết hc Mác - Lênin đối vi s phát trin ca khoa hc và khoa hc xã hi- nhân văn.
Bác có th gi m vài ý giúp cháu hiu rõ hơn đc ko ? Cháu lên dàn ý cũng tàm tm rùi nhưng phn ni dung làm sao nói rõ các vai trò thì cháu còn mơ h.
Cháu tng hc Triết hc ĐH ri nên cũng hiu qua nhng điu bác nói trên. Hy vng bác vch ra vài ý để cháu thông sut hơn ! Cm ơn bác nhìu...

ĐÔNG LA:
tot nhat la chau goi cai dàn ý cho bac se gop y duoc cu the hon
Guest  6 năm trước
Mt câu ca anh DongLa tôi chưa tán thành lm:
"Ngày xưa dường như Triết hc thường là s suy ngm ca các nhà Khoa hc sau nhng phát minh ca h."
Không phi "dường như" anh , mà là "chc chn", triết hc , có th nói là "thoát thai" t nhng cái gi là "c thuyết khoa hc", bt lun nó là triết hc gì. Các nhà triết hc thc th thì trước hết phi là các nhà khoa hc, c th hơn h phi là các nhà vt lý hc vì đây chính là lĩnh vc duy nht gi được cm hng cho nhng suy tư "ngay ngn/khoa hc" v thế gii.
Thc tế, nhng nhà triết hc đều là nhng nhà vt lý. Nói chính xác hơn h trc tiếp đưa ra nhng "định đề" triết hc. H có th trc tiếp là nhng triết gia hoc là người khi xướng các triết thuyết.
Nhng thng bá vơ không hiu biết vt lý và toán hc mà bàn triết hc, t hơn còn coi triết hc là "khoa hc xã hi" hay "khoa hc ca các khoa hc" thì đương nhiên là tào lao bt lun nó tên là gì.

Kính bác Đông La
Theo tài liu bác gi cho cháu
Phn đầu là ly t “wikipedia”
Phn hai là t cun “Câu chuyn triết hc ca Will Durant”
Phn ba là t bài viết “Immanuel Kant t triết hc phê phán đến nghiên cu con người” ca TS H
S
ĩ Quý.
Phn mt: thông tin b ct xén, cách dch không nht quán.
Phn hai: mt s trích dn mà sách đề cp đến (trích t cun Phê bình lý tính thun túy và Phê bình lý tính thc tin) cháu không tìm thy.
Phn th ba viết, đưa ra nhn xét mà không trích dn t sách ca Kant.
C ba phn thông tin bác đưa không giúp cháu gii quyết, làm sáng t
các câu h
i v Kant mà cháu đã hi bác. Vy nên cháu mong bác dành thi gian mt vài ba để tr li các câu hi mà cháu đã gi đến cho bác.
Đa t bác!
V cá nhân: cháu tên Nguyn Văn Nam, hin cháu là sinh viên
n
ăm nht trường Đại hc Khoa hc Xã hi và Nhân Văn Tp. HCM. Cháu t thy kiến thc ca mình con non kém, mà các thy trên khoa thì quá bn nên không giúp gì nhiu được cho cháu. May quá lên mng li có bác là cao nhân. Chau mong được bác giúp đỡ. Cháu cm ơn bác!

ĐÔNG LA:
Cái trường cháu hc quá quen thuc vi bác, con gái bác hc ng văn Anh cũng mi ra trường. Khoa triết, khoa văn, s... thì không ai không biết bác. T t bác s tr li, triết hc nó không phi c th như 1+1=2 nên nói cho cháu hiu tht rõ cũng khó.

Kính bác Đông La,
Nghe danh bác đã lâu, gi mi được biết, qu tht bác là con người đa tài. Bài viết ca bác có nhiu thut ng mà cháu, người rt kém, vn chưa hiu. Mong bác có th b chút thi gian gii thích giùm được không ? Vì hai bài viết ca bác cùng mt ch đề nên sau đây cháu viết gp thành các đim:
1. Bác viết: “Còn cái “cuc cách mng Copernicus ni danh ca Kant” đưa ra thuyết “không th biết” xut phát t vic
cho lý tính có tính “an-ti-nô-mi”, t
c tách đôi thành
nh
ng mt đối lp: Người ta không nhn thc được vt t nó (Ding an sich), mà ch nhn thc được hin tượng (Erscheinung) mà nó th hin.” “Vt t nó” (Ding an
sich) theo Kant là gì? “an-ti-nô-mi” theo Kant là gì? “Erscheinung” theo Kant là gì? “Thuy
ết không th biết” ca Kant là gì? Và Kant trình bày “lý tính có tính “an-ti-nô-mi”, tc tách đôi thành nhng mt đối lp: Người ta không nhn thc được vt t nó (Ding an sich), mà ch nhn thc được
hi
n tượng (Erscheinung) mà nó th hin.” đâu?
2. Bác viết: “Ông cho tri thc tiên nghim là mt cái gì đó có sn, như kết qu toán hc 7 + 5 = 12 vy.” Vy Kant trình bày ý này đâu? Kant hiu “tiên nghim” là gì?
3. Bác viết: “Kant cho rng vi lun lí tiên nghim (transzendentale Logik) thì các khái nim, tc các phm trù (Kategorien), không tu thuc vào kinh nghim (erfahrungsunabhängige Begriffe).” Kant trình bày ý này đâu ? đây bác dch “transzendentale” là “tiên nghim”, vy “transzendent” bác dch là gì? “Transzendentalien” bác dch là gì? “ A priori” bác dch là gì? đây bác dch ch “Begriffe” là “các khái nim”, vy tai sao trong câu “Anschauungen
ohne Begriffe sind blind” bác l
i dch ch “Begriffe” là “lý thuyết khoa hc” cháu nghĩ “lý thuyết” thì khác vi “khái nim” ch ? Và Kant hiu các ch này (transzendentale, Transzendentalien, transzendent, a priori, Begriffe) như thế nào?
4. Bác viết: "Ý nim (suy nghĩ, tâm trí) (Gedanken ) không có ni dung là rng tuếch, trc quan (s quan sát) (Anschauungen) không có khái nim là mù quáng"
(Gedanken ohne Inhalt sind leer, Anschauungen ohne Begriffe sind blind),” Câu này Kant vi
ết đâu, bác có th cho cháu s trang ca câu này trong sách ca Kant được không ? Bác dch “Gedanken” là “ý nim”, vy ch “Idee” (trong cùng cun Phê phán lý tính thun túy ca Kant) bác dch là gì? Và Kant hiu thế nào là “Gedanken”, thế nào là “Idee”?
5. Bác viết: “Max Planck phát minh ra lượng t”. Vy ch “lượng t đây bác hiu là gì? Và Max Planck “phát minh ra lượng t” năm bao nhiêu?
Bác là bc tin bi, sau khi viết phn bin hay như vy đối vi bài ca T Huy, thì cháu bác s dành chút thi gian để tr li cho k hu bi này. Chân thành cm ơn bác. Mong sm nhn
được hi âm ca bác.

ĐÔNG LA:
Vi khoa hc nó c th thì tôi tr li ngay được. Trước Planck, người ta cho năng lượng phát x ca mt vt là liên tc, nhưng kết qu thc nghim nó vênh vi lý thuyết, nên Planck cho s phát x là gián đon, tng phn mt (tc lượng t), và ông đã đúng. Còn vào năm nào thì tôi không phi mt sách nên o nh, mun biết tra d thôi. Còn v triết hc tôi s gi cho bn mt ít tài liu mà qua đó tôi đã viết,
b
n xem có th t tr li được không? Vì bn hi nhiu mà tôi li rt
b
n vì đang quan tâm điu khác.
Cm ơn bác.
Cháu thc mc câu "Max Planck phát minh ra lượng t". Vì my ông
th
y trên trường cháu nói rng cái gì có sn thì không "phát minh" ra
được, ch là "phát hin" ra thôi. Bác nói đúng rng năng lượng phát
x
ca mt vt là gián đon, đó là lượng t. Cháu cũng thường nghe nói kiu
nh
ư: Max Planck xây dng, đặt nn móng hay thiết lp "thuyết lượng
t
" (quantum theory) hơn là câu "Max Planck phát minh ra lượng
t
".
Cháu đang đọc bài bác gi, viết v Kant ca Tiến sĩ H Sĩ Quý. Ngay đon th
4, th
5 có viết "Trong phn th hai, phn lun lí TIÊN NGHIM
(transzendentale Logik)," nh
ưng cách đó vài trang, (trang 5 theo cách cháu
đánh s trang vi c ch là 12, font Helvetica), TS. H Sĩ Quý li viết
"Nh
ng cm nhn không thôi cũng chưa dn đến các khái nim (Begriff). Kant phát huy tư tưởng ca mình
trong ph
n nói v Lun lí SIÊU NGHIM (transzendentale Logik)." Điu này
càng khi
ến cháu hoang mang hơn.
Công thêm đon này "các trc quan cm năng kinh nghim (empirische Anschauungen
der Sinnlichkeit)
được phi hp (Synthesis) vi nhng ý tưởng ca giác tính
(Vorstellungen des Verstandes). C
m năng (Sinnlichkeit) (cm giác nhc dc)
vàgiác tính (Verstand) (tâm trí) là hai ngu
n tri thc duy nht, ngang hàng và
h
thuc ln nhau. "Ý nim không có ni dung là rng tuếch, trc quan
không có khái ni
m là mù quáng" (Gedanken ohne Inhalt sind leer,
Anschauungen ohne Begriffe sind blind.)" KHÔNG H
GHI TRÍCH DN T ĐÂU.
NHNG ĐIU NÀY CÀNG KHIN CHÁU HOANG MANG, chc cháu chưa đủ tm để hiu,
nên có th
cháu s làm phin bác na. (Cháu nghĩ vi người có tâm có tm có kh
n
ăng như bác thì tr li nhng câu thc mc ca cháu trong comment trước không
quá khó
đâu . Bác c thong th dăm ba ba tr li cháu cũng không sao . Cháu
c
m ơn bác!).

ĐÔNG LA:
Ti my ông thy ca cháu không hiu phát minh cũng như phát hin thôi, ch phát minh ra nhng cái có sn mà người ta chưa biết, nhng cái có ý nghĩa khoa hc ln lao thì gi là phát minh, ch o ai phát minh ra cái không có. Vi Planck nên nói ông là phát minh ra lượng t, là người đặt viên gch đầu, còn thuyết lượng t rt rng, có rt nhiu bác hc xây dng, cùng vi thuyết tương đối là 2 tr ct ca vt lý hin đại. Còn Thuyết Tương đối thì mt mình Einstein làm ra thôi, ông được coi là vĩ đại nht là vì thế. Còn triết hc nói chung không khó, nó khó vì người ta trình by không rõ, v nhng điu chính người ta cũng không rõ luôn, k c nhng nhà triết hc như Kant. Triết hc là quy lut chung cn suy ngm. Nên mun hiu triết hc và giá tr ca nó phi hiu khoa hc và cuc sng, còn không thì ch như con mt sách thôi, nhiu khi người ta huyên thuyên mà không hiu gì. Như ông TMH viết “tương đối duy tâm”, “tương đối duy vt” là ông ta mù đặc. T t tôi s tr li cháu tng ý 1, ch my câu cháu hi có th làm được my cái bng TS đấy. Cháu là ai? đâu?

ĐÔNG LA  7 năm trước
Đúng là đon trích trên trong cun Lược s thi gian http://www.taybacuniversity..., tôi đã trích khi viết tranh lun vi Đỗ Minh Tun t năm 1997, đăng trên VNQĐđã được tng thưởng ca năm. Chuyn Quyết định lun và Vô định lun tôi cũng coi t cun sách đó do chính S.Hawking viết. Cám ơn bn đã chia s.
9X  7 năm trước
Bác viết hay quá, nht là cái đon "Triết hc thiên v suy ngm t nhng kết qu ca khoa hc, nghĩa là khoa hc luôn phi đi trước để triết hc có cái mà suy ngm". Trước nay cháu vn nghĩ triết hc là ghê gm lm, ri nghe đến bác Nam Sơn là nghĩ đến núi Thái Sơn hc thut ri. Nay nghe bác ging gii mi v ra nhiu điu... Cũng tâm đắc vi bác là để gii triết hc thì trước hết phi gii KH t nhiên, k c làm anh nhà văn, nhà thơ nếu gii v t nhiên thì mi không viết lăng nhăng (như cái ông nhà thơ Đỗ Hoàng(?)có viết câu thơ-toán gì đó mà hình như bác đã phê phán) phi không bác.

Xin h
i bác thêm là cái đon "Nên nhà bác hc tt nguyn thiên tài S.Hawking mi nói rng...", bác có th dn ngun ông y nói đâu, khi nào được không?... Ch đọc bài tiếp theo ca bác v ch đề này (vì nghe bác nói là bác đang rnh ri thì phi). "Ông Đông La đó chính là... Thy ta" :D
Chúc vui nghe bác.

Mình đã gp tác gi bài viết đó, ti qua đã bia bt ri. Cám ơn các bn
Anonymous  7 năm trước
Chú Đông La ơi có bài này hay lm:
ĐÔI LI VI TS NGUYN TH T HUY T “TRAO ĐỔI VI ĐÔNG LA”
http://hosodanchu.wordpress...
Chúc chú m
nh khe nhé, cháu vn bên chú. T.NHa Trang