ĐÔNG LA
GIẢI TRÍ CUỐI TUẦN:
TIẾN SĨ NGUYỄN THỊ TỪ HUY –
HÃY TỰ BIẾT MÌNH
Vụ
Đồng Tâm như thế là tạm ổn, các chiến sĩ công an đã “thua nhân dân” một cách
vinh quang trở vể, giả sử nếu các bạn có nổ súng một phát làm bị thương một “nhân
dân” thì bọn “kền kền dân chủ” sẽ gào thét như thế nào? Và những “tổ chức nhân
quyền” trên thế giới sẽ lại chõ mõm vào nội tình nước ta như thế nào?
Gần
đây, sắp đến ngày 30-4, thấy cô TS Văn chương Từ Huy phỏng vấn ông nhà văn Vũ
Thư Hiên về Bác Hồ, tôi chưa đọc mà copy để đó nếu cần thì coi; trước đó ông
Nhà Văn Phạm Viết Đào cũng viết một loạt bài thâm cung bí sử về những chuyện
Bác Hồ với các vị lãnh đạo và giữa các vị lãnh đạo với nhau “bằng mặt mà không
bằng lòng”.
Cuộc
sống loài người rất phức tạp, không phải như đường thẳng, cái gì cũng có thể có,
những người quảng đại, minh triết nhìn cuộc sống một cách toàn diện, nhiều mặt,
thấy được những cái chính yếu, lớn lao và không chấp những chuyện vặt; như lịch
sử VN thì từ mất nước, chết đói được như hôm nay là quá tốt rồi; trái lại những
kẻ thiển cận, ti tiện lại thường khoái trá dán mắt, chúi mũi vào những chỗ tăm
tối, hôi thối để nhận diện, hít hà lịch sử theo cái nhận thức của chúng.
Trong
bài vừa viết về Đồng Tâm khi tôi viết: “Tiếc là cũng như nhiều lĩnh vực trong
xã hội còn yếu kém nền pháp luật của chúng ta đúng là còn rất yếu kém. Một mặt
pháp luật không nghiêm, nhất là đối với bọn trí thức ngu dốt, lưu manh, tự do
xuyên tạc, phóng đại, chửi chế độ như hát hay” chính là viết về loại như Từ
Huy, Viết Đào. Thực tế trong giới văn chương đúng là có nghịch lý, nhiều “đứa” cái
tôi rất cao nhưng tâm địa lại rất thấp, tri thức cũng rất dốt. Như cỡ TS Từ
Huy, Nhà văn Phạm Viết Đào, v.v… tôi vẫn chỉ coi là “kền kền dân chủ” thôi, còn
phải Cao Xuân Huy, Hoàng Minh Chính, Nguyên Ngọc, Chu Hảo, v.v… thì tôi mới tạm
coi là “trí thức”.
Mấy
ngày nay không biết có phải vì câu “trí thức ngu dốt” mà người ta tìm đọc trong
blog của tôi một bài tôi viết về cô Từ Huy nói trên. Vậy hôm nay cuối tuần đăng
lại bài này để độc giả giải trí, có điều để giải trí được cũng lại hơi bị khó!
22-4-2017
ĐÔNG LA
BÀI LIÊN QUAN:
|
Trên thethaovanhoa.vn trong
bài Tiến
sĩ Nguyễn Thị Từ Huy: Để đi đến sự thật, cần biết tự hoài nghi , cô đã
nói: “Tiểu thuyết mới và Robbe-Grillet đã cuốn hút tôi, bởi sự khó hiểu, tính
chất phức tạp và sự khác biệt của nó”.
Như
vậy, Từ Huy đã bị cuốn hút bởi những cái “mới”; “khó hiểu”, “phức tạp”. Âu cũng
là lẽ thường tình của một người tự tin, muốn phấn đấu vươn lên, chứng tỏ mình.
Tôi cũng từng như vậy, vì tò mò tôi cũng đã tìm hiểu, nhưng không chỉ lý luận
văn học mà còn tất cả những gì làm nên nhận thức của nhân loại, từ lý luận văn
học, triết học, cho đến khoa học. Còn Từ Huy, e rằng cô chỉ chạy theo cái lấp
lánh của những khái niệm, cô đã không tỉnh táo để thấy cái mang danh là “mới”
ấy nhưng về thời gian thì cũng đã cách nay nửa thế kỷ rồi!
Nước
Pháp và mấy nước Châu Âu vốn là những nước háo danh, người ta đã thi nhau đưa
ra đủ thứ trường phái, rồi ai cũng tự cho mình là sáng tạo đích thực, là chân
lý nghệ thuật. Khởi đầu là trong hội họa người ta đã cho việc vẽ giống thật là
sao chép tầm thường, Chủ nghĩa Ấn tượng đã ra đời. Các hoạ sĩ cho rằng
phải vẽ ngoài trời mới thu giữ được những khoảnh khắc thoáng hiện của hiện thực
sống động, chú trọng thể hiện ảnh hưởng của sự chiếu sáng hơn là quan tâm đến
đường nét. Picasso chê: “Làm sao cái chốc lát đổi thay chập chờn bên ngoài
sự vật lại có thể là sự thật duy nhất mà người nghệ sĩ một đời theo đuổi”.
Và, Chủ nghĩa Lập thể hình thành với ý muốn thể hiện được “cái bên
trong” và cái “nhiều mặt” của sự vật, với một ngôn ngữ hội họa là những hình
khối, những mặt phẳng. Rồi đến lượt Chủ nghĩa Lập thể cũng lại bị chê
là đã coi thường hình thể hài hoà của tự nhiên. Chủ nghĩa Đađa, một chủ
nghĩa “phá phách”, cho nghệ thuật chính là sự phá vỡ cái cũ, chống lại
trật tự tự nhiên để tạo ra một trật tự mới, trật tự của những cái phi lý.
Theo Arp: “Định luật của cái ngẫu nhiên là định luật bao trùm lên tất cả
mọi định luật”. Chủ nghĩa Siêu thực thoát thai từ Chủ nghĩa
Đađa, trong Tuyên ngôn Siêu thực, Breton cho “hình ảnh siêu
thực” chính là sản phẩm trùng hợp giữa hai thực tế khác nhau, một thực tế có
thực và một thực tế có trong tiềm thức. Nhưng đến lượt Chủ nghĩa Siêu
thực cũng lại bị chê bởi một trong những chủ soái của một chủ nghĩa
khác: Chủ nghĩa Hiện sinh, Camus viết: “Thật là một cuộc nổi loạn
thực sự… Sự phủ nhận của nó với mọi cái là rõ nét, sắc bén và đầy tính khiêu
khích”! (dẫn theo cuốn : “Những bậc thầy văn chương thế giới tư tưởng và quan
niệm, Lê Huy Hòa, Nguyễn Văn Bình soạn, nxb Văn học, 1995; cả cuốn về Mỹ thuật
hiện đại nữa, tìm mãi chưa ra).
Như
vậy cái nào là chân lý nghệ thuật? Hay sự sáng tạo văn chương nghệ thuật đã bị
biến thành trò chơi, thay đổi như “mốt” thời trang? Còn Từ Huy? Trong cái khối
rubic các trường phái kia, cô cũng nhanh tay chọn lấy một “chân lý”? Khi được
hỏi:
- Luận
án … của chị về trào lưu “tiểu thuyết mới”, … ở Pháp vào các thập kỷ 1960-1970,
… Lý do nào khiến chị đặc biệt quan tâm đến trào lưu này? Phải chăng vì nó phản
ánh một cách nhìn khác về thực tại, báo hiệu và mở đường cho tư duy “hậu - hiện
đại” ngày nay?
Từ
Huy trả lời:
- Tiểu
thuyết mới và Robbe-Grillet đã cuốn hút tôi, bởi sự khó hiểu, tính chất phức
tạp và sự khác biệt của nó so với những hình thức văn học mà tôi từng biết
trước đó. Nếu tiểu thuyết mới còn tiếp tục cuốn hút tôi, thì đó không chỉ vì
những đặc trưng hình thức: tính chất mảnh, tính chất phân rã, sự phá sản của
cái gọi là đại tự sự...
“Đại
tự sự” là khái niệm của Chủ nghĩa Hậu Hiện đại, như chế độ của xã hội VN ta là “đại tự sự”. Như vậy, chế độ “đại tự sự” XHCN
ở Việt Nam, đã đầu tư cho một nghiên cứu sinh say mê nghiên cứu “sự phá sản”
của chính mình! Thật là ngược đời, để cuốn theo cái niềm say mê đó, có lẽ Từ
Huy nên nhận “học bổng” của những người chống chế độ thì phù hợp hơn.
Vậy
“đại tự sự” là gì?
Chủ
nghĩa Hậu hiện đại có khái niệm métarécit, dịch sang tiếng Anh
là metanarrative, có người dịch là siêu văn bản, có người dịch
là đại tự sự (như Từ Huy dùng).
Theo
Lyotard, tinh thần hậu hiện đại sinh ra là để chống lại sự độc tài của các chủ
thuyết mà ông gọi là các siêu văn bản (métarécit). Chủ nghĩa Hậu hiện
đại coi trọng vai trò cá nhân, các nhóm, các lý thuyết nhỏ,
những tiểu văn bản (petits récits), đề cao cái tạm thời, cái ngẫu
nhiên, không coi trọng tính ổn định, tính hợp lý hay sự thật khách quan. Trong
đó tất cả mọi ý kiến đều có quyền hiện diện, kể cả sự bất đồng và nói sai
(paralogie). Lyotard viết: "Nói một cách giản dị nhất, người ta coi
"postmoderne" là sự không tin vào những lý thuyết lớn, siêu văn bản
(métarécits) (ý nói những chủ nghĩa)”.
Trong bài CHỦ
NGHĨA HẬU HIỆN ĐẠI VÀ ẢNH HƯỞNG Ở NƯỚC TA tôi đã viết: “Chủ nghĩa Hậu
hiện đại cũng như mọi trào lưu đã xuất hiện khác đều có phần có lý. Tư tưởng
chống giáo điều, chống khuôn mẫu xơ cứng, áp đặt, đấu tranh cho bình đẳng,
dân chủ, vai trò cá nhân; phá vỡ những quy phạm nghệ thuật mòn cũ… là những mặt
tốt. Nhưng ở ta, tiếp thu nó với ý thức mê muội, nô lệ, đề cao một cách phi lý,
áp dụng một cách cực đoan thì khó mà được ủng hộ rộng rãi. Về mặt tư tưởng, sự
cực đoan theo tinh thần hậu hiện đại sẽ dẫn đến sự hỗn loạn vô chính phủ…
Trong văn chương nghệ thuật, sự cực đoan của chủ nghĩa hậu hiện đại sẽ
biến nó thành trò chơi lập dị, vô nghĩa”.
Tiếc
rằng Từ Huy đúng là đã chạy theo những tín điều nghệ thuật như mốt thời trang
mà không đủ trình độ để “tự biết”, cô nói về Tiểu thuyết mới:
“… trong
cách nhìn của Tiểu thuyết mới, cũng như trong cách nhìn của hiện tượng học,
chiều sâu của sự vật nằm trong chính cái bề ngoài của nó, tương tự như bản chất
của sự vật chính là ở trong hiện tượng mà nó biểu hiện. Đấy là lý do vì sao
Robbe-Grillet và tiểu thuyết mới đề cao cái bề ngoài. Đây chính là một cái nhìn
khác về thực tại”.
Hồi
nhỏ tôi đã xem một bộ phim có cảnh hai đứa trẻ học bài trở thành rất nổi tiếng
hồi ấy: “Rắn là loài bò, rắn là loài bò, sát không chân, sát không chân”. Giờ
đây đọc đoạn văn trên tôi lại thấy có một cô TS cũng nói như thế.
Trong
xã hội loài người, cái điều có rất nhiều hiện tượng và bản chất không trùng
nhau đã là hiển nhiên. Như việc tên kẻ cướp giết người cướp của thì hành động
giết người đúng là ác, nhưng hành động bắn tử tội hoặc quân xâm lược thì cũng
là giết người nhưng bản chất lại là việc thiện. Trong toàn bộ hành trình vươn
tới những nấc thang khác nhau của nền văn minh, công việc chủ yếu của loài
người là vén bức màn hiện tượng để nhìn sâu vào bản chất, kể cả những sự việc
trong xã hội lẫn những sự vật trong tự nhiên.
Nếu
Từ Huy tin theo điều “chiều sâu của sự vật nằm trong chính cái bề ngoài của nó”
thì hai chất cùng là muối của Natri (Na) và cùng là bột màu
trắng: Clorua Natri (NaCl) và Cyanua Natri (NaCN). Chúng đều
“trắng” đấy, theo “thuyết” trên thì chúng sẽ cùng “bản chất”, nhưng Từ Huy thử
cho NaCN vào nồi canh thay cho NaCl mà ăn thử xem có sùi bọt mép ra ngay lập
tức không?
Có
điều viết như trên, cho đó là “cách nhìn của hiện tượng học”, thì Từ Huy lại
“không biết” gì về Hiện tượng học cả. Hiện tượng học không có
phân chia bản chất với hiện tượng theo lẽ thường, nên không
có chuyện đồng nhất hai cái như trên.
Hiện
tượng học không chỉ là “mốt” của nhóm “văn sĩ chuộng lạ” ở nước ta, mà
ngay cả Kundera cũng từng lấy nó làm cơ sở triết lý cho văn chương của mình.
Trong cuộc trò truyện với Christian Salmon, Kundera nói: “Thi sỹ là anh chàng
trẻ tuổi được mẹ dắt tay đến trưng bày trước cái thế giới mà anh ta không thể
bước vào được". Anh thấy đấy, định nghĩa ấy không phải là xã hội học,
không phải là mỹ học, cũng chẳng phải tâm lý học”. C.S: “Nó là hiện tượng
học”. M.K: “Tính từ này không tồi, nhưng tôi tự cấm mình dùng. Tôi
quá sợ các vị giáo sư coi nghệ thuật chỉ là một thứ phái sinh của các trào lưu
triết học và lý thuyết. Tiểu thuyết biết đến cõi vô thức trước Freud, biết đến
đấu tranh giai cấp trước Marx, nó thực hành hiện tượng học (cuộc tìm kiếm bản
chất các tình huống của con người) trước các nhà hiện tượng luận. Tuyệt vời
biết bao các “cảnh mô tả kiểu hiện tượng học” ở Proust là người chưa từng biết
một nhà hiên tượng học nào!”
Vậy Hiện tượng học là gì? Có lẽ cũng cần bỏ chút thì giờ phân tích đôi nét chính của một trào lưu có ảnh hưởng mạnh đến văn hóa tư tưởng các nước phương Tây trong thế kỷ XX.
Vậy Hiện tượng học là gì? Có lẽ cũng cần bỏ chút thì giờ phân tích đôi nét chính của một trào lưu có ảnh hưởng mạnh đến văn hóa tư tưởng các nước phương Tây trong thế kỷ XX.
Husserl,
người sáng lập ra Hiện tượng học, cho rằng hệ thống triết học cả duy
tâm lẫn duy vật đã bỏ quên con người, vì thế ông muốn sáng lập
một trường phái triết học mới mang ý nghĩa nhân sinh: “nhiệm vụ của nó là
làm rõ cảm giác của con người về thế giới này”. Đặc thù của Hiện tượng
học là mô tả sự tự sinh của ý thức, cái ý thức luôn hướng
về đối tượng nào đó (tính cố ý, ý hướng tính), rồi sẽ nhận thức đối tượng
đó bằng cảm tính chủ quan của mình, ban bố cho nó ý nghĩa. Sẽ không
có duy tâm hay duy vật theo lý thuyết cũ mà chỉ có trạng thái nối
liền liên khách chủ thể (Relation sujet-objet), đó chính là cái trạng
thái mà Husserl gọi là sự suy tư về chính chủ thể suy tư. Nếu Descartes
cho sự tồn tại của con người là sự suy tư "Cogito,
ergo sum" thì Hiện tượng học của Husserl còn đi xa hơn:
“Cogito, ergo cogito cogitatum”. Nghĩa là suy tư về cái tôi khi nó suy tư
về sự suy tư. Sự suy tư đó chính là những hiện tượng tự sinh trong ý thức.
Và để nắm bắt được ý thức thuần tuý, Husserl đã đưa ra phương
pháp epoché (έποχή) hoặc "bracketing" (cô lập, để
trong ngoặc) đối tượng nhận thức. Theo Từ điển, “Ý thức thuần túy” theo Husserl
là: “sự gột rửa của ý thức khỏi những sơ đồ, những giáo điều, những khuôn mẫu
tư duy”. Đó là “tái tạo trường tư tưởng trực tiếp, trường các ý nghĩa giữa ý
thức và đối tượng”. Khi ấy ý thức và đối tượng gắn chặt với nhau thành một đối tượng
duy nhất và có tính lưỡng diện - đứng về phía chủ thể thì gọi là noèse,
đứng về phía đối tượng thì gọi là noème. Chính Husserl đã diễn giải quá
trình đó đại ý: Trong trạng thái ấy chủ tri dừng ngay mọi phán đoán
có liên quan, đặt đối tượng trong ngoặc, chỉ hướng tới những gì là bản chất
nhất của nó, như tri giác về “ngôi nhà” thì vẫn là tri giác về “ngôi nhà”,
“ngôi nhà được nhận thức”, ngôi nhà được đặt trong ngoặc, tự thân nó vẫn sống
động, chẳng hạn như các quang cảnh về, dáng-vẻ-ở-một-khoảng cách từ, v.v…, và
chúng sản sinh ra ý thức vẫn về chính ngôi nhà đó, lưu giữ một cách chân xác
mỗi loại tư duy, mỗi loại “tôi trải nghiệm”, “tôi tư duy”, “tôi cảm nhận”, “tôi
mong muốn” về ngôi nhà đó, v.v…
Tóm
lại, theo từ điển Triết học, Hiện tượng học là “Khuynh hướng duy
tâm chủ quan” nhưng theo “kiểu” riêng của Husserl.
Như
vậy, ta thấy Hiện tượng học có thể có ý nghĩa khi ta khuôn nó trong
một phạm vi nghiên cứu riêng về phân tích tâm lý: trước cùng một sự vật hoặc sự
việc, tùy theo từng người, sẽ “tự sinh” các cảm nhận khác nhau. Nó có thể rất
có ích cho các nhà văn xây dựng chiều sâu tâm trạng, thế giới tinh thần phong
phú của nhân vật. Còn coi Hiện tượng học là triết học cao hơn
cả duy tâm, duy vật, là chân lý cuộc sống thì phải xem lại. Bởi con người
luôn có tốt, xấu, giỏi, dốt khác nhau, nhận thức của một thằng kẻ
cướp cũng được coi trọng như một nhà phát minh; xã hội không còn chuẩn mực về
tri thức và đạo lý nữa thì sẽ như thế nào?
Chủ
nghĩa Hiện sinh ra đời sau Hiện tượng học đã chịu ảnh hưởng
nhiều từ nó. Đó là một chủ nghĩa đề cao tự do cá nhân, cho con người không phải
chịu ràng buộc bởi tự nhiên cũng như xã hội. Khi cực đoan, một số người đã đua
nhau sống theo bản năng, tự nhiên chủ nghĩa, có thời thanh niên ở một số nước
phương Tây đã đua nhau để nguyên râu tóc, lũ lượt kéo nhau lên rừng sống bằng
rau trái, tự nhiên khỏa thân, tự do chung chạ v.v… Sau nữa, Chủ nghĩa Thực
dụng ra đời cũng dựa trên cái Tôi “Không có cái gì gọi là chân lý khách
quan mà chỉ có chân lý của cái tôi. Chỉ có cái gì có lợi cho tôi sẽ là chân
lý”!
Mặt
khác, ở câu trên, Từ Huy một mặt viết: “chiều sâu của sự vật nằm trong chính
cái bề ngoài của nó” nhưng câu liền kề lại viết ngược lại:
“Các
nhà tiểu thuyết mới tự nhận là họ có một cái nhìn chính xác hơn về thực tại. Vì
thực tại đôi khi không phải là cái mà người ta có thể xác quyết chắc chắn; đôi
khi nó là cái lẩn đi dưới cái nhìn của chúng ta, dưới sự phán xét của chúng ta;
đôi khi nó không phải cái mà ta tưởng là nhìn thấy, nắm bắt được hay hiểu rõ.
Đó là cái nhìn của một “kỷ nguyên hoài nghi (từ dùng của Nathalie
Sarraute)”.
Trong
quá trình nhận thức, khám phá, nhất là đối với những nhà nghiên cứu thì đúng là
cần phải biết “hoài nghi” các kết quả để không bị lầm lẫn, còn đối với mọi mặt
trong xã hội, một xã hội sống với tinh thần hoài nghi thì sẽ làm được cái gì?
Ngoài
việc đề cao, tích cực tuyên truyền về “Tiểu thuyết mới”, “Hiện tượng học”,
“Hậu hiện đại”, v.v…, tôi cũng rất bị bất ngờ khi Từ Huy cũng lại cố công tuyên
truyền về Nietzsche. Cơ sở để Từ Huy thần phục Nietzsche chính
là cuốn Nietzsche và triết học của Gilles Deleuze mà cô đã dịch
và xuất bản qua một lời giới thiệu: “tôi vui mừng thấy Nietzsche trở lại một
cách mới mẻ, hiện đại hơn với công trình Nietzsche và triết học của
triết gia Gilles Deleuze qua bản chuyển Việt ngữ của Nguyễn Thị Từ Huy và lời
giới thiệu trân trọng, công phu của học giả Bùi Văn Nam Sơn (Tủ sách tinh hoa,
NXB. Tri thức, 2010)”.
Vậy Nietzsche là
ai?
Theo Từ
điển triết học (NXB Tiến bộ Matxcơva, bản dịch tiếng Việt của
Nxb Sự thật Hà nội, 1986, tr. 412): “Học thuyết Nít-sơ đã là một
trong những nguồn gốc của hệ tư tưởng phát-xít”; Theo Bachkhoatoanthu của BỘ
VĂN HÓA - THÔNG TIN: “Friedrich Nietzsche (1844 - 1900), nhà triết học Đức, đại
biểu của chủ nghĩa phi lí và ý chí luận, … Chết trong trạng thái điên”; “CHỦ
NGHĨA PHI ĐẠO ĐỨC: quan niệm vứt bỏ mọi tiêu chí đạo đức, lấy tính vô đạo đức
làm nguyên tắc của hành vi”; “và trong sự phát triển của tư tưởng đó đã sinh ra
thuyết "siêu nhân". Ông là người theo ý chí luận triệt để, cho rằng ý
chí quyết định hết thảy, và chính "ý muốn quyền lực" là động lực
quyết định mọi quá trình xã hội và tự nhiên. Qua những luận đề nói trên, Nitsơ
công khai tán dương sự bóc lột, sự đàn áp và xâm lược, cũng như sức mạnh”;
“Những khía cạnh tiêu cực trong triết học của Nitsơ cũng đã bị bọn phản động
khai thác, đặc biệt là bọn Quốc xã”.
Trong
bài Phê phán và siêu nhân được đăng bởi nguyentrongtao, Từ Huy đã “biện minh”
cho Nietzsche như sau: “Phê phán là hành vi dẫn tới sự vượt lên đó,
dẫn tới sự hình thành của siêu nhân. Và bất kỳ ai có khả năng tự phê phán, có
khả năng tự hủy diệt mình đều mang trong mình siêu nhân, hay nói theo cách của
Nietzsche, đều là nơi trú ngụ của siêu nhân. Khi tập trung làm sáng rõ điểm
này, Deleuze đã góp phần “giải oan” cho Nietzsche ở một trong những vấn đề dễ
gây hiểu lầm nhất trong tác phẩm của ông. Siêu nhân, qua lý giải của Deleuze,
không phải là kẻ dẫm đạp lên người khác, không phải là kẻ thống trị những ai
yếu hơn[6].
Trái lại, siêu nhân sở dĩ mạnh là vì biết vượt qua chính mình, và biết để cho
người khác vượt qua mình, biết rằng mình chỉ là một giai đoạn “chuyển tiếp”,
chỉ là một “sự suy tàn”, biết chấp nhận tự tiêu vong”.
Theo
Đạo Phật: “Thân vô thường, tâm vô ngã”. Cái “tôi” thực chính là thần thức có
thể luân hồi tái sinh qua nhiều kiếp trong những cái Tôi chiếm hữu mỗi người
trong một kiếp. Vì thế cái Tôi không thực, chỉ là giả tạm, nhưng lại sinh ra
tham, sân, si làm khổ người ta. Cái Tôi luôn có khuynh hướng tự tôn, bành
trướng, sinh ra lòng tham không cùng, nên pháp tu chính của Đạo Phật là chế ngự
cái Tôi, là Thiền, là trở về KHÔNG. Vì thế Đạo Phật có ý nghĩa rất lớn trong
giáo dục đạo đức xã hội, ngoài ra còn có giá trị về Y học và cả trong khoa học
nữa. Trong khi đó, thuyết “siêu nhân” của Nietzsche lại đề cao cái Tôi
một cách cực đoan nên thực sự là phản giáo dục. Còn chuyện “phê bình và tự phê
bình” đã là lẽ tự nhiên của mỗi sự phát triển lành mạnh, nhưng cái chính là
người ta có vượt qua được cái Tôi để thực hiện phê và tự phê hay không mới là
quan trọng. Còn quan niệm về “siêu nhân”
của Nietzsche được Deleuze “giải oan” mà Từ Huy đã tin theo:
“Phê phán là hành vi dẫn tới sự vượt lên đó, dẫn tới sự hình thành của siêu
nhân. Và bất kỳ ai có khả năng tự phê phán, có khả năng tự hủy diệt mình đều
mang trong mình siêu nhân” thực sự là phản thực tiễn và phản khoa học. Bởi
người ta chỉ phê phán cái yếu kém, cái sai, để thành người tốt hơn, giỏi hơn.
Sự phát triển về khả năng và nhận thức là cả một quá trình tích lũy, mỗi thành
tựu đều phải trả giá rất đắt mới có được; mỗi người, mỗi xã hội, cũng như cả
nền văn minh đều phải phát triển trên nền tảng có sẵn đó, có phê phán là phê
phán cái yếu kém, cái sai sót còn tồn tại để tiến lên, chứ “tự hủy diệt” thì
chỉ có thành thằng điên, thành thằng phát-xít (với mỗi cá nhân) và rớt
xuống vực thẳm (với cấp độ xã hội) mà thôi!
Để
khách quan, ta hãy xem Will Durant, “một ông nghè triết học của đại học
Columbia”, trong Câu chuyện Triết học (The Story of Philosophy -
Will Durant, Trí Hải và Bửu Đích dịch, Viện Đại Học Vạn Hạnh, 1971), cho
biết Nietzsche đã quan niệm về thiện ác như sau: “…chàng sẽ không
ngần ngại "Ác" (boese) nếu mục đích của chàng đòi hỏi; "Thiện là
gì? Tất cả những gì tăng trưởng cảm thức quyền lực, ý chí quyền lực, chính
quyền lực, ở trong người. Ác là gì? Là tất cả những gì sinh ra từ
sự yếu hèn"”; “Do đó mọi chiến tranh đều tốt, bất chấp cái ti tiện tầm
thường của những nguyên nhân gây ra nó vào thời đại này”; "một cuộc chiến
tranh tốt đẹp sẽ thần thánh hoá mọi nguyên nhân".
Trong
“Zarathustra đã nói như thế”, chính Nietzsche cũng viết: “Con người
cũng như cây cối vậy. Hễ nó càng muốn vươn lên những vùng trời cao vút và rực
sáng bao nhiêu thì những gốc rễ của nó càng phải đâm sâu vào lòng đất… vào sự
ác xấu! Phải, vào sự ác xấu!”
Đất
nước ta đến tận hôm nay vẫn là một nước yếu kém về nhiều mặt. Chúng ta từng
ngây ngô nghĩ rằng đã đánh thắng được “đế quốc to” thì ta cái gì cũng làm được.
Nhưng thật kỳ lạ, có những cái trong hiểm nguy, một mất một còn, không chỉ cần
ý chí mà đòi hỏi cả trí thông minh nữa, chúng ta đã làm được những điều mà thế
giới nghĩ rằng ta không thể nào làm được; trái lại, trong cuộc sống thanh bình,
có những cái những nước phát triển làm được thì ta đến hôm nay, và có lẽ còn
lâu nữa, vẫn chưa làm được! Chính vậy, cái chính sách bế quan tỏa cảng ngày nào
đã đẩy nước ta đến tận bờ vực của nghèo khó. Và rồi chính sách mở cửa đã đưa
chúng ta đến được những ngày như hôm nay. Nhưng rồi sự mở cửa cũng có “phản ứng
phụ”. Vì vậy, cái chuyện cần phải “gạn đục khơi trong” để “tiếp thu tinh hoa”
của thế giới đã trở thành hiển nhiên, nghe quen thuộc đến nhàm tai, nhưng thực
tế vẫn luôn là một vấn nạn. Trong biết bao điều tốt đẹp được du nhập vào đất
nước luôn có lẫn cỏ dại và nấm độc, những cái mà không ngăn chặn có thể sẽ dần
làm mục ruỗng cả nền tảng xã hội. Cả ngành truyền thông dường như đang lạc
đường khi tối ngày cổ vũ lối sống tranh đoạt, đề cao cái tôi, với những siêu
sao, siêu mẫu thành công dễ dãi nhờ “khoe hàng” hoặc may mắn. Những cái cao
quý, sâu sắc, tinh tế đang bị những cái nhăng nhít mốt miếc, hot hiếc dồn đến
chân tường! Tiếc rằng trong lĩnh vực tri thức uyên thâm cũng có tình trạng như
vậy. Người ta cũng ham của lạ, cũng chạy theo những khái niệm lấp lánh, kêu
beng beng, nhưng thực chất chẳng hiểu gì về chúng. Mà đúng ra, nếu đủ trình độ
và bản lĩnh, người ta vẫn có thể nhận được những phần tốt đẹp từ Triết
thuyết Phê phán của Kant, Hiện tượng học của Husserl, kể
cả Ý chí luận của Nietzsche cũng như Hậu hiện đại của Lyotard
v.v… Tiếc rằng với riêng trường hợp Từ Huy lại không được như thế. Có một cái
gì đó thật nông nổi của một người tôi cao trí thấp đã khiến cho cô bị sa lầy
trong đống chữ, cái tốt không học lại đi học cái dở. Phải chăng vì thế Từ Huy
đã có những hành động và nhận thức lộn ngược, khăng khăng cho mình là đúng khi
ủng hộ và tôn vinh những người mà các cơ quan công quyền đã xử phạt vì phạm
pháp:
“Một
số người được nói đến ở đây là những người đi vào chốn lao tù bằng sự can đảm,
bằng lòng cao thượng, nghĩa hiệp. Họ vào tù để thể hiện tự do của chính họ, và
tự do của họ, hay là sự mất tự do của họ, nếu nhìn từ góc độ khác, là điều kiện
cho việc một ngày nào đó mọi người ở Việt Nam sẽ có tự do. Theo định nghĩa
của Aung San Suu Kyi, họ chính là quốc bảo.
Họ
là những Trần Huỳnh Duy Thức, Cù Huy Hà Vũ, Lê Công Định, Nguyễn Tiến Trung,
Nguyễn Văn Hải, Tạ Phong Tần, Lê Thanh Hải, Đinh Đăng Định… Các vị thẩm phán có
thể kết án những con người không còn sợ hãi đó, đưa họ vào tù, giam cầm thân
xác họ. Nhưng không thể giam cầm tự do của họ”.
Cũng
chính vì vậy mà Từ Huy đã bất chấp Cù Huy Hà Vũ là một đứa con chính người cha
là Nhà thơ Huy Cận đã than thở là “bất nghĩa, bất trung, bất hiếu”; một kẻ có
những hành động trái luân thường đạo lý và phạm pháp khi cho ta tiêu diệt bọn
diệt chủng PonPot là “xâm lược Căm-pu-chia”, đề nghị xóa bỏ ngày lễ thiêng
liêng của dân tộc mừng ngày đất nước toàn thắng, hòa bình và độc lập v.v… nên
Từ Huy mới viết ngược ngạo thế này:
“Xã
hội này có phải đã mất hết ý thức về các giá trị làm người rồi không, mất hết ý
thức về các giá trị nhân đạo rồi không, mất hết ý thức về công lý, lẽ phải rồi
không?”; “Chừng nào pháp luật được dùng để bảo vệ cái xấu, cái ác và chống lại
con người, chừng đó sẽ có xã hội của dã thú” v.v…
Chưa
hết, trong sáng tác, Từ Huy cũng đã làm theo cái thẩm mỹ lộn ngược. Theo tôi đó
là cái thẩm mỹ mất nhân tính, bởi nếu còn nhân tính thì người ta phải biết xấu
hổ khi nói đến thô tục, phải biết kinh tởm khi nói đến uế tạp, cặn bã. Năm
1990, khi đi trên đại lộ Nhevxki trung tâm Leningrat, tôi đã quá ngạc nhiên khi
thấy có nhóm họa sĩ trưng bầy tranh trên lề đường được “vẽ” bằng cách dán những
lưỡi lam, vé số, dây thừng v.v… Sau tìm hiểu thì được biết người ta cũng đã có
“cơ sở nghệ thuật” cho cách biểu đạt đó. Suy ngẫm thêm thì thấy trong tự nhiên
có loài hổ, báo chỉ thích ăn thịt tươi, nhưng cũng có loài linh cẩu, kền kền
lại chỉ thích ăn xác thối! Thì ra loài người cũng vậy, cũng có những người có
sở thích thẩm mỹ như linh cẩu, như kền kền! Từ Huy chỉ là kẻ đi sau, thậm
chí rất rất rất sau, nhưng đến như Nguyễn Huy Thiệp cũng mới chỉ trơ
lỳ nhân tính, qua suy nghĩ của nhân vật, cho việc lấy xác thai nhi nấu cho chó
ăn “chẳng quan trọng gì”, hoặc tả mặt người ta đen và tái như da ở “bìu dái”;
“lông chân như lông lợn”; còn Từ Huy thì đã dấn thêm một nấc nữa về phía băng
hoại khi viết:
“Văn chương là dinh dưỡng, là
thứ mà ta không thể sống nếu thiếu nó, nó là cứt”.
Thật
kinh tởm khi phải viết những dòng này, nhưng với tinh thần trọng chứng hơn
trọng cung, tôi buộc phải viết. Thực ra ý của Từ Huy nảy ra từ ý của Victor
Hugo: “Cứt giúp mùa xuân làm nở hoa hồng”. Kể cũng ghê ghê nhưng Hugo viết cứt
là phân bón làm nở hoa hồng thì đúng quá. Còn theo cách hành văn như trên của
Từ Huy ta buộc phải hiểu “Văn chương nếu được ví là dinh dưỡng thì nó là cứt”,
vậy cũng có nghĩa là “cứt là dinh dưỡng”! Mà khi đã coi cứt là dinh dưỡng thì
đúng là mất nhân tính rồi!
Thực
tế Từ Huy chẳng bao giờ dùng cứt thay cho dinh dưỡng đâu, nhưng bà TS Văn
chương Pháp hạng tối ưu chỉ vì quá dốt về ngôn ngữ nên mới viết như vậy thôi.
Cái này thì đến khả năng tiếng Việt của ông Trần Mạnh Hảo cũng nhận ra cái sai
của bà TS này chứ không cứ gì tôi!
Về
quan hệ riêng thì tôi hoàn toàn không biết gì và không liên quan gì đến Từ Huy.
Nhưng những vấn đề liên quan đến “hiện tượng Từ Huy” thì tôi tự thấy thật
nghiêm trọng, nhất là Từ Huy lại đang là một cái tên hot trong giới
học thuật, nên tôi đã phải viết một loạt bài quyết liệt như thế. Bởi tôi e ngại
cách nghĩ của Từ Huy sẽ thành cái “mốt”, mà khi đã thành “mốt” rồi thì đâu cần
đúng sai, phải trái nữa! Như cái “mốt” gầy trơ xương của người mẫu đó, nó phản
thẩm mỹ nhưng người ta vẫn đua theo! Tôi mong bạn đọc hiểu cho, tôi viết với
tinh thần “thương cho roi cho vọt”, chỉ mong Từ Huy và những người noi theo Từ
Huy sớm tỉnh ngộ. Đừng có thân làm tội đời! Chỉ vậy thôi!
TPHCM
18-12-2012
ĐÔNG LA
____________________________
TÀI LIỆU THAM KHẢO
*Từ
điển Triết học (NXB Tiến bộ Maxcơva và NXB Sự thật Hà
Nội, 1986, bản in tại Liên xô); *Từ điển Triết học Phương Tây hiện
đại(Nxb Khoa học Xã hội, H. 1996); *CÂU TRUYỆN TRIẾT HỌC(Nguyên
tác: The Story of Philosophy - Will Durant - Trí Hải và Bửu Đích
dịch); *NGUYỄN (PHẠM?) MINH LĂNG: Mấy trào lưu triết học phương
Tây (NXB Đại học và Giáo dục chuyên nghiệp, H., 1988); *NGUYỄN
TRỌNG NGHĨA: PHƯƠNG PHÁP HIỆN TƯỢNG HỌC CỦA E.HUXÉC (Tạp chí Triết
học); *NGUYỄN THỊ MAI HOA: E.HUSSERL (1859 - 1938) - NHÀ HIỆN TƯỢNG
HỌC - Cuộc đời và tác phẩm (Tạp chí triết học) v.v…
BÌNH LUẬN:
Tò mò về bác ĐL quá. Càng đọc càng phục. Kiến thức của bác sâu và rộng như
vậy nên nhận thức rất chuẩn, lý lẽ vô cùng thuyết phục. Thế mà bây giờ mới biết
trang nhà của bác.
Tạ Hoàng • 4 năm trước
Theo tôi thì cũng chả có gì mới cả,cũng lại như "thằng" Bùi
Tín, viết bậy, chửi đổng ăn tiền như nhau cả thôi. Họa chăng có chỉ có bọn phản
phúc nó nghe rồi nó tung hê lên,chứ cái thứ ấy mà đọc cho người dân nghe thì
chỉ có ăn gạch vào mặt! Ta đừng nhắc đến,hãy để nó chết chìm trong bể thông tin
này!
Tư Mã Thiên • 4 năm trước
Gửi bác Đông La bài này trên Dân luận. Tư Mã Thiên nảy ra ý mới từ bài
này, sẽ nói sau, trước mắt bác đọc bài đã
http://danluan.org/tin-tuc/...
http://danluan.org/tin-tuc/...
Bút Luận • 4 năm trước
Bác Đông La à, mấy hôm nay thiên hạ xì xầm nhiều về cái vụ "bên
thắng cuộc" của chàng Osin. Bác có biết chiện này không? Ý kiến bác về vụ
này thế nào, bác viết lên cho mọi người được chia sẻ nhé!
Bác ghé nhà bác Hoà Bình để biết thêm
Kính bác khoẻ!
Bác ghé nhà bác Hoà Bình để biết thêm
Kính bác khoẻ!
Bút Luận • 4 năm trước
Có người nói với tôi rằng: "Chắc gì cô Từ Huy chịu đọc hết các bài
viết của Đông La, Nguyễn Thanh Tùng về cô ta..."
Tôi tin và hy vọng cô ấy sẽ đọc. Bởi được như thế sẽ là cái phúc cho gia đình cô và cho đất nước này.
Tôi tin và hy vọng cô ấy sẽ đọc. Bởi được như thế sẽ là cái phúc cho gia đình cô và cho đất nước này.
DG_DG • 4 năm trước
Việc chửi càn của đám kia là bình thường rồi bác ạ. Bác đừng chấp làm
gì. Cứ thẳng tay mà xóa thôi.
Đang đọc bài viết của bác.
Đang đọc bài viết của bác.